Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009

Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán: Lạnh lùng như Buffet



Wednesday, 18 July 2007

Warren Buffett sinh năm 1931 ở một thị trấn nhỏ tên là Ohama. Gia đình ông có mối quan tâm lớn đến thị trường chứng khoán.

Ông học được bài học lớn đầu tiên về đầu tư chứng khoán vào năm 11 tuổi khi “gà” cho người chị của mình đầu tư toàn bộ “tài sản” riêng (100 đôla) mua 3 cổ phiếu (với giá 38 đôla/cổ phiếu) của một công ty nhỏ. Giá cổ phiếu công ty này sau đó tụt giảm mạnh và người chị đã rất lo sợ, muốn bán ngay để gỡ gạc lại chút vốn còm, trong nỗi ân hận nghe lời đứa trẻ xui dại.

May thay, giá cổ phiếu đó đã tăng trở lại và cậu bé đã vội bán với giá 40 đôla/cổ phiếu, thu lãi được chút đỉnh cho người chị sau khi trừ phí giao dịch. Điều làm ông bực mình nhất là giá cổ phiếu đó còn tăng lên đến 100 đôla sau một thời gian ngắn. Đứa trẻ Buffett đã phải chịu thua áp lực của khách hàng, nhưng cậu ta cũng học được một bài học có giá trị từ đây.

Khi đã thành một nhà đầu tư chuyên nghiệp, Buffett hiếm khi nói cho khách hàng biết ông đang làm gì với tiền của họ bởi vì điều này chỉ làm họ lo lắng thêm - và chỉ ngăn cản ông đưa ra những quyết định lạnh lùng, tỉnh táo để tăng thêm lợi nhuận cho họ.

Ở tuổi thanh niên, đang học tại Đại học Pennsylvania, Buffett đã tích góp đủ tiền để đầu tư mua đất tại Nebraska. Tư tưởng thích kiếm tiền từ thuở bé đã làm ông không dừng ở đây. Ông đã liên hệ để trao đổi ý tưởng với và xin làm việc cho Benjamin Graham, lúc đó đang điều hành một doanh nghiệp đầu tư 4 người, có lẽ là “tiệm đầu tư” đầu tiên cho đến lúc đó.

Graham là người khởi xướng cho khái niệm tìm kiếm các giá trị ẩn tàng. Ông chú mục vào 2 chỉ tiêu chính: tỷ trọng hàng tồn kho trên doanh thu và tỷ trọng nợ trên vốn góp cổ đông. Graham từ chối đầu tư vào các công ty có nợ nhiều hơn vốn cổ đông. Ông cũng tin rằng có thể tìm ra những công ty mà giá trị ròng của nó không phản ánh qua giá trị cổ phiếu.

Buffett hấp thu những tư tưởng này của Graham, cũng như của Phillip Fisher - một nhà đầu tư rất thành công. Ông này quan tâm đến trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp thể hiện qua các tài khoản và tỷ lệ tồn kho. Fisher có một nguyên tắc mà Buffett không bao giờ quên: Nhà đầu tư vào một công ty nào đó chỉ nên làm hậu thuẫn cho các nhà quản lý giỏi của công ty, chứ không được tự mình quản lý công ty đó.

Ở tuổi 25, Buffett đã thuyết phục thành công hàng xóm của mình ở Ohama góp 100.000 đôla (tương đương với 1 triệu đôla giá hiện tại) vốn đầu tư với mình. Ông thỏa thuận với các đối tác là sẽ mang lại ít nhất 6% lãi, và ông sẽ được hưởng 25% trên số lãi vượt mức 6% này.

Trong một bức thư gửi các đối tác, ông viết: “Tôi không thể cam đoan về kết quả đầu tư với các ông, nhưng tôi có thể và xin cam đoan rằng: (i) các khoản đầu tư của chúng ta sẽ được lựa chọn trên cơ sở giá trị; (ii) mô thức đầu cơ của chúng ta sẽ cố gắng làm giảm thiểu thua lỗ vốn vĩnh viễn (chứ không phải thua lỗ danh nghĩa trong ngắn hạn)”.

Buffett đã mang lại cho các đối tác hơn 6% lợi nhuận. Những đối tác đầu tiên này đều đã trở thành triệu phú. Ước tính có đến 52 người ở ở Ohama đã thành triệu phú nhờ đầu tư với Buffett trong một vài năm đầu tiên.

Tuy nhiên, năm 1969, Buffett quyết định thời vận của mình đã chấm dứt, trong bối cảnh thị trường chứng khoán trở nên nóng bỏng trong suốt thập kỷ 60, làm cho nhiều loại chứng khoán trở nên quá đắt đỏ. Ông rút lui khỏi thị trường và phải khổ sở với hiện thực là hầu như không còn đầu tư chứng khoán nữa.

Sự rút lui này quả là đúng lúc, và ông đã không bị mất tiền trong cơn suy thoái của thị trường năm 1973-74. Đây cũng là cơ hội tuyệt vời để mua chứng khoán với giá thấp cho đến tận cuối năm 1974.

Khi Buffett trở lại thị trường, ông nói cảm giác lúc đó “như một gã đàn ông lạc vào chốn cấm cung toàn phụ nữ”, khi có quá nhiều cơ hội. Tất cả những khỏan đầu tư mới sau này, chủ yếu là ngành truyền thông, đều rất thành công.

Có thể lý giải một phần động cơ đầu tư của ông vào ngành truyền thông là bắt nguồn từ truyền thống gia đình (cha và ông của Buffett đều là những nhà sản xuất, biên tập báo chí). Nhiều trong số ý tưởng đầu tư của ông cũng bắt nguồn từ cái gốc gác dân “tỉnh lẻ” của mình. Ông ghét những công ty nào hay thay đổi cái hay cách thức họ đang làm. Sự ổn định là một dấu cộng. Những cái tên lớn ở Mỹ cũng vậy. Vì thế 2 trong số những khoản đầu tư thành công của ông là Coca Cola và Walt Disney, 2 biểu tượng của Mỹ.

Nhìn từ khía cạnh tâm lý học thì Buffett là một con chiên của chủ nghĩa hình thái. Ông nhấn mạnh rằng bạn phải tập trung vào các ưu điểm của một công ty trong một khối tổng thể, thay vì chỉ nhìn vào, ví dụ, cái giá mà mình sẽ thu được khi chia nhỏ và bán các tài sản khác nhau của nó.

Một trong những ví dụ về tư tưởng này là việc ông đầu tư vào American Express. Năm 1982, hãng này bị thua lỗ lớn vì vướng vào một vụ tai tiếng liên quan đến dầu trộn salad. Giá cổ phiếu của nó giảm mạnh từ 62 USD xuống còn 35 USD. Thiên hạ đồ rằng hãng này sắp bị phá sản, và báo chí thì liên tục đổ thêm dầu vào lửa.

Buffett nhìn sự việc lạnh lùng hơn. Ông phân tích các ngành kinh doanh cơ bản của hãng này – du lịch, thẻ tín dụng, séc lữ hành. Những lĩnh vực này không bị ảnh hưởng bởi vụ tai tiếng trên. Là một người theo chủ nghĩa hình thái, ông nhìn toàn bộ hãng và cho rằng nó vẫn tốt. Thị trường đã quá hoảng sợ và phóng đại mức độ nghiêm trọng của thảm họa. Ông đã mua rất nhiều cổ phiếu của hãng này và trong vòng ít năm, giá của nó đã tăng từ 35 USD lên 189 USD.

Một trong những tư tưởng chính của Warren Buffett là cuối cùng thì giá trị thực của cổ phiếu sẽ được phản ánh qua giá thị trường. Thủ thuật ở đây là phải nhìn ra được giá trị thật của nó trước người khác, rồi mua rẻ - và sau đó phải sẵn sàng chờ đợi thời cơ. Tất nhiên nhìn ra được giá trị thực của cổ phiếu không phải đơn giản vậy - và ông không bao giờ tiết lộ các phép tính chi tiết ông sử dụng để đánh giá giá trị thực của một công ty và dự đoán giá của nó sẽ lên đến bao nhiêu.

Tuy vậy, cũng cần biết rằng Buffett có một số kiêng kỵ. Ông thừa nhận rằng có “vận đen” trong một số ngành như bán lẻ. Gốc gác “nhà quê” cũng làm ông rất lo ngại với cổ phiếu nông nghiệp vì ông biết rõ là nhà nông thường có mức tồn kho lớn, một điều mà Graham tối kỵ.

Khi đã trở thành người nổi tiếng, Buffett luôn nhấn mạnh sự bình dị của mình. Ông sống ở Ohama trong ngôi nhà ông mua từ những năm 50. Dưới đây là một trong số những phương châm của ông được nhắc đến nhiều nhất:

- Nguyên tắc 1: Không bao giờ để mất tiền

- Nguyên tắc 2: Không bao giờ được quên nguyên tắc 1

Và một câu nói mang tính tôn giáo: “Thị trường như Chúa cứu giúp những ai tự cứu giúp mình. Nhưng khác với Chúa, thị trường không tha thứ cho những ai không biết phải làm gì”.

Những câu nói trên củng cố thêm hình ảnh bình dị của Buffett như bất kỳ một người Mỹ bình thường nào khác. Tuy vậy, nhiều người biết rõ đây là một hình ảnh bị bóp méo đôi chút. Không phải ngẫu nhiên có tác giả đã đặt tên cho cuốn sách của mình về Buffett là “The Midas Touch” (tạm dịch: “Cái chạm của Midas”).

Những nguyên tắc đầu tư của Buffett xem ra có vẻ đơn giản nhưng để thực hiện được chúng thì phải có toàn bộ sự nhiệt thành, cam kết, và sự tập trung cao độ vào thị trường, một năng lực tính toán hơn người, và sự tiếp cận với những thông tin mà bình thường là điều bất khả đối với những ai ít có các quan hệ.

TS. Phan Minh Ngọc Đại học Kyushu, Nhật Bản

(Theo www.vneconomy.com.vn)

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/kinh-nghiem-dau-tu-chung-khoan-lanh-lung-nhu-buffet.html

Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán: Slater, bạn của nhà đầu tư nhỏ

Wednesday, 18 July 2007

Jim Slater có lẽ là người có những lời khuyên ảnh hưởng nhất đối với những nhà đầu tư tư nhân nhỏ. Ông nhấn mạnh rằng nhà đầu tư nhỏ có thể trở thành những chuyên gia đầu tư trong một hoặc hai lĩnh vực của thị trường

Ông có lẽ là “giáo sĩ” đầu tư đầu tiên ở Anh, khuyên rằng nên tìm kiếm những cổ phiếu có chỉ số P/E thấp. Theo ông, nhà đầu tư nhỏ, bình dân có một số lợi thế so với những nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp.

Trước tiên, nhà đầu tư nhỏ có ít tiền để đầu tư hơn nên họ có thể đầu tư với hiệu quả cao hơn vào những công ty nhỏ hơn. Thứ hai, các nhà đầu tư nhỏ khó có khả năng đầu tư vào hơn 10 công ty. Điều này có nghĩa là họ có thể chọn ra được các công ty tốt nhất thuộc top 10. Nếu so sánh thì các nhà đầu tư chuyên nghiệp sẽ có một danh mục đầu tư lớn hơn nhiều và không thể tránh khỏi trong số đó có những công ty không phải là thuộc nhóm tốt nhất.

Phần lớn lời khuyên của Slater trong các cuốn sách của mình có ý nghĩa thông dụng. Ông khuyên nên đầu tư vào các công ty có lợi thế cạnh tranh. Điều này có thể có từ một thương hiệu tốt hoặc bản quyền sở hữu trí tuệ như của các công ty dược phẩm trong một số loại thuốc. Một khi nhà đầu tư đã xác định được một công ty với lợi thế cạnh tranh rồi thì anh ta nên nhìn vào công ty có tốc độ phát triển nhanh.

Ông định nghĩa công ty có tốc độ phát triển nhanh là công ty có tốc độ tăng cổ tức trên mức trung bình. Ông cũng cho rằng công ty nào có thể “nhân bản” một hoạt động kinh doanh nào đó, ví dụ như cửa hàng, tiệm ăn, nhà dưỡng lão là công ty có triển vọng tốt.

Slater đồng ý rằng rất khó để đánh giá năng lực quản lý của các công ty, đặc biệt đối với các nhà đầu tư nhỏ vì nhiều công ty thuê những chuyên gia tham mưu để đánh bóng họ lên. Vì vậy, ông gợi ý nên bắt đầu bằng một số phép tính số học. Những nguyên tắc chính là:

- Mỗi năm trong 5 năm qua phải có lãi. Không năm nào có lỗ.

- Nếu trong vòng 5 năm trước công ty có lợi nhuận sụt giảm tại năm nào đó thì nó phải đạt được mức cổ tức cao nhất trong năm gần nhất. Điều này chứng tỏ công ty đang thật sự có động lực để tăng trưởng.

- Cổ phiếu bất động sản được loại trừ vì chúng phụ thuộc vào sự biến động của giá bất động sản chứ không phải là vào tăng trưởng nội lực. Một bất động sản có thể tăng về giá trị nhưng sự tăng này rất có thể không phải là do tài năng quản lý.

- Phải nhận được đánh giá tích cực của các nhà môi giới về triển vọng phát triển. Ưu điểm của phương pháp này là nhà đầu tư có thể sử dụng kết quả nghiên cứu của người khác. Kỹ thuật của Buffett và Soros xác định được cái mà không ai khác biết được - hoặc là giá trị ẩn tàng, hoặc là một xu hướng chưa được nhận biết trên thị trường - đòi hỏi ít nhất phải có những nghiên cứu chuyên sâu, và có lẽ phải có thêm cả tiếp cận đến những thông tin mà nhà đầu tư nhỏ khó có thể tiếp cận được.

- Slater thận trọng với những công ty trong những ngành có tính chu kỳ như xây dựng và kiến thiết. Để được coi là cổ phiếu có triển vọng phát triển thì chúng vẫn phải thỏa mãn được các chỉ tiêu nêu trên.

- Cuối cùng, Slater khuyên nên nhìn vào tốc độ tăng trưởng P/E thay vì bản thân chỉ số P/E (với một số giải thích và chuẩn mực cụ thể).

Một lời khuyên có ý nghĩa khác của ông là nên tránh những công ty mà chủ tịch của chúng sống quá hào nhoáng. Biển số xe “thửa” là một dấu hiệu xấu. Cũng là một dấu hiệu xấu nếu ông chủ tịch đoạt được nhiều quyền lợi trong một câu lạc bộ bóng đá. Thâu tóm cá nhân (và/hoặc tự tôn) lớn thì lợi nhuận sẽ nhỏ.

(Theo www.vneconomy.com.vn)

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/kinh-nghiem-dau-tu-chung-khoan-slater-ban-cua-nha-dau-t.html

OTC không tự do



Wednesday, 18 July 2007

Cùng với sự đi lên của thị trường chứng khoán niêm yết, thị trường giao dịch cổ phiếu phi tập trung - OTC cũng phát triển rất nhanh.

Thị trường OTC viết tắt theo cụm từ tiếng Anh là “Over the Counter”, để chỉ việc giao dịch cổ phiếu ngoài sàn giao dịch chứng khoán, hay còn gọi là thị trường giao dịch cổ phiếu phi tập trung. Cụm từ viết tắt OTC thể hiện tính thông lệ quốc tế mà Việt Nam đang trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, thị trường giao dịch cổ phiếu dứt khoát không nằm ngoài những giao dịch và tính toán đó

Song hiện nay đang có những quan điểm và nhận thức khác nhau về vấn đề này, vậy thực chất của nó ra sao?

Trước hết chưa thể gọi thị trường OTC là thị trường chứng khoán tự do, bởi vì các cổ phiếu được giao dịch chưa đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, chưa bị điều chỉnh bởi pháp luật về giao dịch chứng khoán. Do đó chỉ có thể gọi là thị trường giao dịch cổ phiếu mà thôi.

Song bản thân giao dịch trên thị trường này hiện nay ở nước ta không chỉ có cổ phiếu mà có cả trái phiếu có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu. Ước tính hiện nay trên thị trường đang có khoảng 6 loại trái phiếu dạng này, đó là trái phiếu của Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI), các ngân hàng thương mại: Á Châu, Quân đội, Cổ phần Sài Gòn, Ngoại thương Việt Nam, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam...

Thứ hai là, không thể gọi thị trường OTC là thị trường tự do. Giao dịch cổ phiếu trên thị trường OTC tuy không chịu sự quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán và pháp luật chuyên ngành về chứng khoán, nhưng chịu sự quản lý Nhà nước về chuyên ngành kinh doanh, điều chỉnh pháp luật về giao dịch dân sự và hình sự, pháp luật chuyên ngành kinh doanh, Luật Doanh nghiệp, đặc biệt là các quy định về hội đồng quản trị và ban kiểm soát công ty cổ phần, quy định về cổ phần; các quy định về cổ phiếu, vốn điều lệ, kiểm toán và các quy định khác có liên quan.

Do đó những người mua bán cổ phiếu OTC đều bám theo các quy định pháp luật nói trên để thực hiện các giao dịch và tìm kiếm cơ hội đầu tư sao cho phòng ngừa tới mức thấp nhất rủi ro.

Văn phòng hội đồng quản trị của các ngân hàng thương mại cổ phần, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm cổ phần, doanh nghiệp cổ phần khác nói chung, hầu như đều ban hành văn bản mẫu về hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu, đơn xin chuyển nhượng... Những quy định và điều khoản ràng buộc trong đó đều bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, tức là cả bên mua và bên bán, quyền lợi về chia cổ tức, mua cổ phiếu tăng vốn,... dựa trên điều lệ của công ty cổ phần và các quy định pháp luật khác có liên quan. Nếu như các hành vi lừa đảo thì cũng chịu các chế tài của luật hình sự.

Các tranh chấp về dân sự cũng được giải quyết theo Luật Dân sự. Thanh tra chuyên ngành: ngân hàng, tài chính,... cũng có nội dung thanh tra và chức năng thanh tra giải quyết những vấn đề liên quan cổ đông, cổ phần, cổ phiếu, của ngân hàng thương mại cổ phần, công ty chứng khoán cổ phần và công ty bảo hiểm cổ phần,... cổ phiếu của các công ty chưa niêm yết giao dịch OTC cũng hầu hết được ghi rõ các giao dịch chuyển nhượng chỉ có giá trị khi làm thủ tục qua văn phòng hội đồng quản trị của doanh nghiệp đó.

Thủ tục chuyển nhượng cũng hết sức chặt chẽ với việc xuất trình sổ hộ khẩu, chứng minh thư, chữ ký gốc... Các ngân hàng thương mại cổ phần bắt buộc phải thực hiện kiểm toán độc lập hay kiểm toán quốc tế hàng năm và phải công bố công khai thực trạng tài chính trước đại hội cổ đông, trước công luận.

Bởi vậy trong thực tiễn ở nước ta, hơn 2 năm qua, thị trường OTC cũng phát triển rất nhanh, giao dịch sôi động, với hàng trăm loại cổ phiếu được giao dịch OTC, tổng số vốn hoá cũng lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng, nhưng chưa gây ra vụ kiện tụng hay tranh chấp nào ầm ĩ trong xã hội, trên thị trường, cũng chưa thấy toà dân sự, hay mức độ cao hơn phải xử lý các trường hợp tranh chấp giao dịch trên thị trường OTC.

Cũng nắm bắt nhu cầu giao dịch trên nên đã hình thành tự phát nơi đăng ký giao dịch cổ phiếu OTC trên trang web của các công ty kinh doanh chứng khoán, như: ANS, ABCS, BVSC,... hoặc các trang chuyên về giao dịch OTC, như: SanOTC, OTC24h...

Trong đó, nếu như trong mục rao vặt OTC của địa chỉ BVSC, các thông tin giao dịch mua bán cổ phiếu chỉ được duyệt và đưa trên mạng 1 lần trong ngày thì địa chỉ SanOTC được xét duyệt và đăng tin liên tục trong ngày. Đây được coi là hai địa chỉ có tần suất giao dịch sôi động nhất và hiệu quả nhất trong việc khớp nối thông tin giữa cung và cầu về mua bán cổ phiếu OTC hiện nay.

Các địa chỉ trang web nói trên không chỉ đăng thông tin giữa nhu cầu mua và bán mà còn thông tin về các công ty có cổ phiếu giao dịch OTC, thông tin khác liên quan đến phân tích thị trường OTC.

Theo www.vneconomy.vn

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/otc-khong-tu-do.html

Phân tích - dự báo giá cổ phiếu


Phân tích - dự báo giá cổ phiếu
Saturday, 14 July 2007

Một số nội dung cơ bản giúp nhà đầu tư phân tích và dự báo giá cổ phiếu. Nắm chắc những thủ thuật này, nhà đầu tư có thể an tâm hơn khi bước vào cuộc chơi CK đang rất sôi động.

1. Tiến hành phân tích cổ phiếu (CP) trên thị trường với mục tiêu là đưa ra dự báo về giá CP và xu hướng giá CP trong tương lai, tìm khả năng sinh lời cao. Đó là một trong những nội dung quan trọng - xác định giai đoạn nào của chu kỳ CP tăng trưởng - giúp nhà đầu tư cân nhắc để đi đến quyết định đầu tư CK có hiệu quả nhất.

2. Đầu tư vào CP, với tính chất sinh lợi và rủi ro cao, nhà đầu tư thường sử dụng một lượng tiền khá lớn hoặc cực lớn để kinh doanh CK, do đó, họ rất quan tâm việc dự báo diễn biến giá CP. Nếu dự đoán giá cả diễn biến đúng, sẽ mang lại thành công lớn; và ngược lại, sẽ thua thiệt, thậm chí có khi dẫn đến phá sản. Chính vì vậy, phân tích CP đã trở thành một ngành kinh doanh lớn và có xu hướng ngày càng phát triển - theo đòi hỏi ngày càng cao của nhà đầu tư - vì thị trường ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp hơn.

3. Muốn phân tích CP để dự báo tốt về diễn biến giá cả CP, nhà đầu tư cần phải xem xét, nghiên cứu và tìm ra câu trả lời thỏa đáng các vấn đề cụ thể:

- Các CP nào sẽ lên giá - vì sao?

- Các CP đó lên giá bao nhiêu - do đâu?

- Trong thời gian bao lâu, thì các CP đó đạt mức tăng như vậy - vì đâu?

Phải phân tích và tìm ra một ưu thế cạnh tranh nhất định so với các đối thủ khác như: độc quyền về công nghệ, phát minh sáng chế, chiếm lĩnh thị trường hoặc phương pháp quản lý khoa học, chặt chẽ, nâng cao hiệu quả kinh doanh ...

4. Trong giai đoạn thử nghiệm này, hầu hết chỉ có sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân, sau 43 phiên giao dịch, giá liên tục tăng quá cao, vượt xa giá trị thực của CP (có loại CP giá thị trường hơn 3 lần so mệnh giá CP) - với tác động của quan hệ cung - cầu thị trường và tâm lý nhà đầu tư - xu hướng giá còn tiếp tục tăng và giá tăng, giảm xen kẽ, dẫn đến rủi ro và lợi nhuận xen kẽ, thực sự cuộc chơi "đỏ, đen", người được kẻ mất trong kinh doanh CK. Hãy cảnh giác với thị trường.

5. Vấn đề quan trọng là phải xác định và lựa chọn CP tăng trưởng - nghĩa là cổ phiếu đó có thể tiếp tục tăng trưởng trong tương lai, theo các tiêu chí sau:

- Đưa ra các sản phẩm mới hoặc dịch vụ mới, độc đáo, có sức thu hút trên thị trường, có khả năng chiếm lĩnh thị trường, đạt tốc độ tăng trưởng trong thời gian dài;

- Có chu kỳ doanh thu ổn định, tăng một cách liên tục đều đặn;

- Ở trong giai đoạn của chu kỳ tăng trưởng để có lợi nhuận cao trong một thời gian dài;

- Ở vị thế dẫn đầu trong ngành hoạt động và có chiến lược phát triển thích hợp, dự đoán đúng xu hướng phát triển trong tương lai;

- Có lợi nhuận trên vốn cao hơn 15%, sử dụng một phần lợi nhuận còn lại sau khi đã chi trả cổ tức để tăng vốn chủ sở của các cổ đông - tái đầu tư phát triển;

- Có số lợi ít, hoặc ít nhất là có tỷ số nợ/vốn cố định khoảng<>

6. Căn cứ vào các tiêu chí trên, cần phân tích kỹ những loại cổ phiếu đang lưu hành - tính hoàn thiện chưa đủ. Mỗi loại cổ phiếu: SAM, REE, HAP- mang sắc thái riêng, từng tiêu chí "đậm, nhạt" khác nhau - nổi lên là: công nghệ, sản phẩm, thị trường, tái đầu tư, lợi tức, tỷ số nợ và các tổ chức quản lý...., đặc biệt là chiến lược phát triển trong tương lai.

Cảnh giác với thị trường, vì thị trường vẫn hoạt động chỉ với 4 loại CP giao dịch, đầu tư gắn liên với đầu cơ, giá tiếp tục biến động. Cần tìm ra các giới hạn khác nhau của các loại cổ phiếu đó - xác định mức độ tín nhiệm và sinh lời để có chiến lược đầu tư cụ thể đối với từng loại cổ phiếu, bảo đảm lợi nhuận và thu nhập hợp lý là vấn đề khó khăn và giải quyết đúng đắn của các nhà đầu tư, tránh rủi ro thua thiệt.

7. Trong thực tế kinh doanh CK, việc dự báo biến động giá và xu hướng giá ngắn hạn có nhiều thành công hơn và chính xác hơn dự báo xu hướng dài hạn, vì tính nhạy cảm và phức tạp của thị trường chứng khoán. Do đó, phải dự đoán và xử lý các vấn đề sau:

- Trong dài hạn, đầu tư CP sẽ mang lại lợi tức vượt xa các loại đầu tư khác, yếu tố quyết định nhất và duy nhất đến giá CP là lợi nhuận và chất lượng CP là quan trọng nhất;

- Trong ngắn hạn, đầu tư CP có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính của nhà đầu tư;

- Lợi nhuận và rủi ro luôn tỷ lệ với nhau, lợi nhuận cao thì rủi ro càng lớn; d/ Mức độ biến động của CP lớn hơn nhiều so với trái phiếu, lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng đến giá trái phiếu;

- Danh mục đầu tư đa dạng sẽ ít rủi ro hơn danh mục đầu tư tập trung;

- Lạm phát là mối đe dọa lớn nhất đối với các khoản đầu tư dài hạn. Đó là những vấn đề kinh tế - tài chính và nguyên tắc kinh doanh phức tạp, có tính tổng hợp - ảnh hưởng do nhiều yếu tố khác nhau kể cả trình độ hiểu biết của các chuyên gia phân tích CK cũng như nhà đầu tư.

8. Phân tích cơ bản CP nhằm cung cấp thông tin để đánh giá triển vọng tăng trưởng và lợi nhuận trên cơ sở dự báo tương lai của TCPH, của ngành hoạt động, của nền kinh tế quốc dân và trong tương lai của cả nền kinh tế thế giới. Nó bao gồm các nội dung:

- Đánh giá môi trường kinh doanh tương lai;

- Dự báo thu nhập tương lai của TCPH;

- Dự báo mức giá CP. Do đó, phân tích cơ bản là phương pháp tiếp cận dài hạn, còn có nhiều biến số phải tính đến và không biết trước chắc chắn được.

9. Phân tích kỹ thuật CP nhằm nghiên cứu những diễn biến hay hành vi thị trường - thông qua việc nghiên cứu các mô hình giao dịch và các hành vi hiện tại của thị trường, vốn đã phức tạp - để có thể biết được một cách sâu sắc các hành vi có thể xảy ra trong tương lai của thị trường. Những thông tin về một CP, hoặc một ngành, hoặc một thị trường đều có thể được các nhà đầu tư nghiên cứu, xem xét, và do đó, nó phản ánh vào trong giá, cổ tức, lợi nhuận và mô hình giao dịch.

Nhà đầu tư có thể đầu tư vào một Tổ chức phát hành khi phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật cùng đưa ra kết luận chung về xu hướng biến động của giá và của TTCK.

(TheoTuoiTre)

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/phan-tich-du-bao-gia-co-phieu.html

Kỳ vọng gì từ khớp lệnh liên tục?



Saturday, 14 July 2007

Từ 7/5/2007, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM sẽ có những thay đổi lớn trong giao dịch với việc chính thức áp dụng phương thức khớp lệnh liên tục.

Ông Lê Hải Trà, Phó giám đốc Trung tâm, khẳng định rằng việc chuyển sang khớp lệnh liên tục, đồng thời áp dụng lệnh thị trường, không có gì khác hơn là nhằm cải thiện giao dịch thành công của nhà đầu tư.

Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM kỳ vọng gì khi áp dụng phương thức khớp lệnh mới?

Việc chuyển sang khớp lệnh liên tục, đồng thời áp dụng lệnh thị trường, không có gì khác hơn là nhằm cải thiện tỷ lệ giao dịch thành công của nhà đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường.

Sự tăng trưởng nhanh của thị trường chứng khoán trong thời gian qua cho thấy tình trạng rớt lệnh và lệnh của người đầu tư không được chuyển tới sàn là hiện tượng phổ biến tại công ty chứng khoán hay nói cách khác là sự quá tải.

Sự quá tải đó đối với người đầu tư là mất cơ hội giao dịch, đối với công ty chứng khoán là một khoản doanh thu không thực hiện được. Đó là một sự lãng phí. Dưới góc độ người vận hành thị trường, đây là vấn đề lớn.

Việc áp dụng giao dịch liên tục không gì khác là để giảm thiểu sự quá tải đó và tránh được sự dồn cục của khớp lệnh định kỳ hiện nay. Trên thực tế, khớp lệnh định kỳ 3 phiên/ngày, nghĩa là chỉ có 3 thời điểm có sự tương tác cung - cầu để hình thành giá mà thôi trong khi đó phương thức mới có 1 tiếng giao dịch khớp lệnh liên tục và vì vậy sẽ cho tỷ lệ lệnh được khớp cao hơn so với mức 50-60% như hiện nay.

Và như vậy, mức độ thành công của các lệnh giao dịch của nhà đầu tư sẽ được cải thiện.

Với những ưu điểm mà khớp lệnh liên tục mang lại như ông vừa nói thì có hạn chế được hiện tượng làm giá không, thưa ông?

Phương thức khớp lệnh liên tục chỉ làm nên một điều là tăng khả năng khớp lệnh thành công của nhà đầu tư. Hay nói cách khác, phương thức này giúp tăng khả năng giao dịch của nhà đầu tư, từ đó nâng cao tỷ lệ giao dịch thành công của người đầu tư. Phương thức đó không làm triệt tiêu hành vi thao túng thị trường.

Phương thức giao dịch mới buộc nhà đầu tư sẽ phải tính toán khi đặt lệnh. Nếu như trong khớp lệnh định kỳ, rất nhiều người không hề muốn mua ở giá nào đó nhưng vẫn đặt lệnh để tạo ra cung cầu giả tạo. Đặc biệt trong những phiên giao dịch nóng, biết là chắc chắn giá sẽ tăng trần, các nhà đầu tư thay vì nhập lệnh ngay từ đầu để mua giá trần thì họ chờ qua 20 phút đầu tiên của phiên giao dịch, 10 phút cuối mới nhập lệnh vào rất nhiều với giá trần, mặc dù người ta biết thừa là các lệnh đó nhập vào sẽ không bao giờ được khớp với thời gian như vậy.

Khi chuyển sang phương thức giao dịch mới có sự kết hợp với khớp lệnh liên tục thì nếu phiên mở cửa mà nhà đầu tư cố tình đặt giá kiểu đấy, khi chuyển sang phiên khớp lệnh liên tục mà có những lệnh đối ứng kịp đưa vào hệ thống thì sẽ có thể khớp theo giá đấy. Nếu cứ cố tình đặt lệnh như với khớp lệnh định kỳ như hiện nay thì khả năng lệnh cố tình đặt để không khớp đó sẽ bị khớp không như ý muốn.

Với 30 phút, thời gian khớp lệnh định kỳ để xác định giá mở cửa và đóng cửa có là quá dài không khi mà trên thực tế đang rất cần nhiều thời gian cho khớp lệnh liên tục, để nhiều lệnh được thực hiện thành công hơn?

Về mặt lý thuyết, có thể rút ngắn thời gian khớp lệnh định kỳ. Nhưng với khả năng nhập lệnh của mình hiện nay thì việc 30 phút không phải quá dài. Điều quan trọng ở đây là với số lượng lớn công ty chứng khoán thì cần có một khoảng thời gian đủ dài để các công ty chứng khoán có thể nhập một số lệnh đủ lớn vào, đủ để phản ánh cung - cầu một cách trung thực hơn, hợp lý hơn và chính xác hơn.

Quãng thời gian 30 phút đầu ngày để xác định giá mở cửa thực ra là để tập hợp các lệnh mua bán lại để so khớp xem một mức giá và mức giá đó phản ánh cập nhật hơn về tình hình cung - cầu của loại cổ phiếu đó. Vì từ trưa ngày hôm trước đến 8 giờ ngày hôm sau có rất nhiều thông tin mà nhà đầu tư có thể cập nhật và phản ánh trong các quyết định mua bán của họ.

Tương tự như vậy, thời điểm cuối ngày là thời điểm làm giá tham chiếu cho ngày hôm sau. Đó là quãng thời gian tập hợp các lệnh giao dịch phản ánh thông tin, nhìn nhận cung cầu vào thời điểm cuối ngày. Trên thế giới, đối với nhiều thị trường, họ không có giá mở cửa nhưng họ có giá đóng cửa, dứt khoát phải có phiên định kỳ đóng cửa.

So với định kỳ hiện nay, số lượng lệnh vào hệ thống được cải thiện ở mức nào, thưa ông?

Sẽ không có gì cải thiện cả vì đối với 2 phiên định kỳ thì vẫn như vậy vì 30 phút vẫn là 30 phút. Chỉ có điều, khoảng thời gian khớp lệnh liên tục một tiếng đồng hồ ở giữa chính là sự cải thiện.

Tại sao Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM không áp dụng phương thức khớp lệnh liên tục như Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội mà áp dụng kết hợp: vừa liên tục vừa định kỳ?

Theo khảo sát của 42 sở giao dịch chứng khoán trên thế giới năm vừa qua, có hơn 60% sở có sử dụng kết hợp cả định kỳ và liên tục, hơn 30% các sở còn lại chỉ áp dụng khớp lệnh liên tục mà thôi. Việc áp dụng cả hai phương thức này là nhằm tận dụng các lợi thế của mỗi phương thức.

Việc tăng đơn vị giao dịch lô chẵn 10 cổ phiếu như hiện nay lên 100 cổ phiếu liệu có là vô tình loại bỏ các nhà đầu tư nhỏ ra khỏi cuộc chơi không thưa ông?

Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM không có tham vọng đáp ứng tất cả nhu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường, mà chỉ phục vụ và đáp ứng được đại đa số các nhà đầu tư.

Việc nâng đơn vị giao dịch khớp lệnh, tất nhiên sẽ có nhiều người bị tác động, nhưng sự ảnh hưởng đó không nhiều, bởi theo thống kê của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM gần đây, tổng số lệnh đặt với khối lượng dưới 100 cổ phiếu chỉ chiếm 14% tổng số lệnh đặt của thị trường nhưng khối lượng lệnh đặt tương ứng chỉ bằng 1% so với khối lượng đặt của toàn thị trường.

Ngay từ đầu khi thị trường chứng khoán Việt Nam được mở ra, đơn vị giao dịch lô chẵn được áp dụng là 100 cổ phiếu. Tuy nhiên, do khoảng thời gian năm 2002 - 2003, thị trường chứng khoán ảm đạm quá nên buộc phải thay đổi đơn vị giao dịch nhằm thu hút người đầu tư tham gia vào thị trường.

Song, với lượng giao dịch nhỏ như vậy, trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển nhanh như thời gian vừa qua lại trở nên quá tải đối với công ty chứng khoán do tạo ra một số lượng lệnh lớn thêm không cần thiết và trên thực tế, người ta không phải không đủ mua một lô 100 cổ phiếu mà cố tình đặt lệnh với khối lượng tối thiểu để thực hiện thủ thuật giao dịch gọi là “rải đinh”, mà không phải là nhu cầu thực tế.

Để giúp nhà đầu tư có chuẩn bị cho phương thức mới này, Trung tâm đã lùi thời gian áp dụng quy định mới về đơn vị giao dịch lại một tháng, thay vì triển khai từ 7/5 thì áp dụng ngày 7/6.

Trong tương lai, khi cơ sở vật chất kỹ thuật, nền tảng công nghệ của Trung tâm cũng như công ty chứng khoán tốt hơn thì hoàn toàn có thể quay lại đơn vị giao dịch lô 10 cổ phiếu.

Tại sao không tăng biên độ lên mà vẫn giữ 5%?

Trước mắt, để duy trì sự ổn định khi áp dụng khớp lệnh nên biên độ vẫn giữ là 5%. Bởi với biên độ 10%, nếu có biến động trần - sàn thì biên độ lúc đó sẽ là 20%. Tuy nhiên, trên thực tế, cách tốt nhất với khớp lệnh liên tục là không dùng biên độ mà dùng ngắt mạch cho cả thị trường.

Ví dụ như tất cả chỉ số trên thị trường mà giảm 10% thì hệ thống sẽ tạm ngừng, sau 30 phút mở lại. Nhưng nếu giảm tiếp thì lại ngừng. Và có một ngưỡng quy định là giảm đến bao nhiêu đó thì đóng cửa thị trường luôn ngày hôm đấy.

Ông có lời khuyên gì với nhà đầu tư?

Tôi có hai lưu ý đối với các nhà đầu tư cá nhân. Thứ nhất, là phải tập trung theo dõi thị trường và theo dõi mức giá đặt lệnh, khi đã đặt lệnh thì phải hết sức lưu ý là nếu muốn mua ở mức giá nào thì hãy đặt ở mức giá đó, đừng cố tình đặt giá trần.

Lưu ý thứ hai là đối với lệnh thị trường, phải hết sức cảnh giác. Bên cạnh tính ưu việt là tạo khả năng giao dịch thành công rất cao, thì mặt trái của lệnh thị trường là có thể khớp tại giá mà người đầu tư không mong muốn.

Việc áp dụng phương thức liên tục mới chỉ là bắt đầu những thách thức ngày càng gia tăng đối với người đầu tư cá nhân. Tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM hiện có 107 công ty niêm yết nhưng đến cuối năm 2007 con số này có thể sẽ lên tới hàng nghìn công ty. Lúc đó, đối với các nhà đầu tư cá nhân, phải đầu tư rất nhiều về thời gian mới có thể theo dõi được hết tình hình của các công ty niêm yết.

Điều này cũng đặt ra một yêu cầu thực tế là nếu không có thời gian nghiên cứu, đánh giá thì nhà đầu tư nên gửi tiền cho các nhà quản lý quỹ chuyên nghiệp. Trên thế giới, tỷ lệ giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân chỉ chiếm từ 10-40% giá trị giao dịch của toàn thị trường, 60% còn lại thuộc về tổ chức.

(Theo www.vneconomy.vn)

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/ky-vong-gi-tu-khop-lenh-lien-tuc.html

Mua cổ phiếu, chú ý thanh khoản


Saturday, 14 July 2007

Nhiều nhà đầu tư sở hữu lượng cổ phiếu có giá trị hàng trăm triệu đồng, nhưng chúng chỉ là những con số. Muốn bán thì không ai mua. Lý do? Vì họ đang sở hữu những cổ phiếu có tính thanh khoản ké

Chọn những ông lớn

Theo thuật ngữ của thị trường chứng khoán thì cổ phiếu có tính thanh khoản là cổ phiếu dễ được chuyển đổi thành tiền trên thị trường, tức cổ phiếu dễ bán. Và trên thị trường hiện nay hầu hết cổ phiếu có tính thanh khoản cao đều là cổ phiếu của các ông lớn.

Có điều, những cổ phiếu có khả năng thanh khoản cao không hẳn là cổ phiếu có lượng giao dịch nhiều nhất. Như cổ phiếu SIB chẳng hạn, theo thống kê từng phiên của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM trước đây người ta thấy cổ phiếu STB mỗi phiên giao dịch trên nửa triệu cổ phiếu, có phiên lên đến 1,3 triệu cổ phiếu.

Thế nhưng, thời gian gần đây do cổ phiếu này được nhiều người tìm mua mà cổ đông thì muốn nắm giữ không bán ra khiến lượng giao dịch tụt xuống còn hơn 40.000 cổ phiếu.

Có thể giải thích hiện tượng này như sau: một thời gian, cổ phiếu STB của Sacombank gần như không tăng giá. Nên khi STB rục rịch tăng giá, có những người không nắm kỹ thông tin, thấy cổ phiếu tăng giá vội bán đi kiếm chênh lệch. Phiên 17/1 và 18/1 lượng giao dịch của STB lên đến hơn 1,1 triệu cổ phiếu. Nhưng rồi đến khi Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM thông báo chính thức việc Sacombank sẽ cho quyền mua cổ phiếu theo tỷ lệ 2 cổ phiếu cũ được mua thêm 1 cổ phiếu mới với giá 15.000 đồng/cổ phiếu, thì những cổ đông bán vội mới bật ngửa ra là mình đã bán hớ. Họ vội vã mua vô, nhưng đến thời điểm này thì còn bao nhiêu người bán!

Một số cổ phiếu trong thời gian qua luôn nằm trong bảng “tốp 5” gồm VNM (Vinamilk), VSH (Thủy điện Vinh Sơn Sông Hinh), REE, PVD (Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí). Tuy nhiên, danh mục “tốp 5” được điều nghiên trong tháng 1/2007 của các chuyên gia thì chỉ có 3 “ghế” thành viên thường trực là STB, VSH và VNM, còn 2 “ghế” thành viên không thường trực thì được thay đổi bởi các cổ phiếu có tính thanh khoản khá như TDH, GMD, CII, BMP...

Mua OTC cũng cần quan tâm tính thanh khoản

Tất nhiên, cổ phiếu đã lên sàn giao dịch, niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM hay đăng ký giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội đều mang tính thanh khoản cao hơn khi còn là cổ phiếu ở thị trường tự do (OTC).

Với cổ phiếu ở thị trường OTC khi có thông tin sắp được lên sàn thì thị giá tăng lên rõ rệt, nhiều người săn mua nên dễ bán. Mức chênh lệch giữa cổ phiếu OTC và cổ phiếu niêm yết có thể tăng gấp 2 lần. Cụ thể như cổ phiếu TDH của Công ty Cổ phần Nhà Thủ Đức trước khi lên sàn giao dịch ở mức giá 120.000 đồng/cổ phiếu, nhưng chào sàn tại mức giá 300.000 đồng/cổ phiếu; hay như FPT lúc còn là cổ phiếu OTC được “cò chứng khoán” chào bán tại giá 240.000 đồng/cổ phiếu thì lên sàn với giá 400.000 đồng/cổ phiếu, gấp 40 lần mệnh giá.

Những sự kiện trên đã làm cho nhà đầu tư lao vào mua những cổ phiếu OTC vì cho rằng có mức lãi cao. Nhưng thực tế, thị trường chứng khoán không có công thức nhất định. Có khi cổ phiếu đấu giá chính thức lần đầu ra thị trường đạt mức giá rất cao nhưng sau đó ngoài thị trường tự do giới “cò” chào bán giá thấp hơn, vẫn không bán được.

Điều đó có nghĩa người mua nên cẩn trọng tìm hiểu thông tin cặn kẽ. Không thể mua theo phong trào, đến lúc cần lại không bán được.

(Theo Sài Gòn Tiếp Thị)

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/mua-co-phieu-chu-y-thanh-khoan.html

Quỹ đầu tư - lựa chọn thích hợp cho công chúng



Saturday, 14 July 2007

Lợi nhuận khổng lồ từ đầu tư chứng khoán đang tạo sức hấp dẫn đặc biệt với người dân. Tuy nhiên, TTCK là một dạng thị trường cao cấp ẩn chứa nhiều rủi ro ngay cả với giới đầu tư chuyên nghiệp.

Gửi tiền vào đâu để vừa có lợi nhuận cao, vừa giảm thiểu rủi ro là nhu cầu của đa số nhà đầu tư cá nhân thiếu kinh nghiệm.

Thiếu kiến thức - rủi ro lớn

Từ trung tuần tháng 11.2006 đến nay, TTCK VN chứng kiến "cơn lốc" tăng giá CP của các Cty trên cả hai thị trường niêm yết và phi tập trung. Sự giao dịch sôi động khiến chỉ VN-Index liên tục xác lập những kỷ lục, ngày 6.2.2007 chỉ số VN - Index đã đạt con số " ngất ngưởng " 1091,38, số lệnh mua bán cũng tăng mạnh làm cho tổng giá trị giao dịch lên đến con số gần một nghìn tỉ mỗi phiên.

Trên thị trường OTC giá CP cũng tăng lên gấp nhiều lần, đặc biệt có những buổi chào bán CP lần đầu ra công chúng của các Cty có số lượng nhà đầu tư đăng ký và lượng đặt mua vượt ngoài mong đợi của tổ chức bảo lãnh cũng như công ty chào bán, giá thành công bình quân của một số Cty vượt ngoài sự "tưởng tượng" của các nhà chuyên môn hay cá nhân có kinh nghiệm.

Hậu quả dẫn đến là rất nhiều người bỏ quyền mua và chịu mất số tiền đặt cọc. Tuy không phải tất cả, nhưng giá nhiều CP tăng cao đến mức mà nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp đánh giá là đã vượt khỏi giá trị thực rất nhiều.

Lợi nhuận từ việc mua bán CP lôi kéo đối tượng tham gia mua bán tăng lên theo cấp số nhân. TTCK thu hút được nhiều đối tượng nhà đầu tư là điều đáng mừng, tuy nhiên cũng không ít những nỗi băn khoăn đặt ra. Một trong những băn khoăn đó là sự tham gia của nhiều người dân mà họ không có nhiều kiến thức về CP hay TTCK.

Những đối tượng này thường mua bán CP theo sự mách bảo của người khác và có tính bầy đàn. Đây là nguyên nhân làm cho nhiều CP trên cả thị trường niêm yết và OTC cao hơn nhiều so với giá trị nội tại, là một nhân tố làm cho thị trường phát triển không bền vững. Nếu thị trường có những biến động thì đây là những người đầu tiên chịu những tổn thất nặng nề.

Thị trường bỏ ngỏ

Kiếm lợi từ việc đầu tư CP là nhu cầu chân chính của mọi người dân. Đồng thời, cũng không thể trông mong hay yêu cầu tất cả mọi người phải trang bị đầy đủ những kiến thức khi tham gia. Những đối tượng này rất cần sự xuất hiện của các tổ chức chuyên nghiệp, nơi có thể uỷ thác số vốn của mình cho những người có chuyên môn và kinh nghiệm.

Khi mua các chứng chỉ quỹ, hay uỷ thác vốn của mình cho các tổ chức chuyên nghiệp, người dân tham gia vào TTCK có thể yên tâm hơn vì đồng tiền của mình đã được gửi cho những người chuyên nghiệp. Xu hướng này là một tất yếu của một TTCK phát triển.

Tuy nhiên thực trạng hiện nay, những tổ chức hay quỹ đầu tư trong nước rất ít. Tại các buổi chào giá của một số Cty, rất nhiều nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng dịch vụ uỷ thác đầu tư đã tìm đến những Cty tài chính nhưng thường bị từ chối do đã hết suất. Đã có hiện tượng chào bán suất uỷ thác đầu tư với số mức tiền lên đến hàng chục triệu đồng. Hiện trên sàn cũng chỉ có duy nhất hai chứng chỉ quỹ BF1 và VF1. Các chứng chỉ quỹ này có quy mô giao dịch rất lớn ở mỗi phiên, chứng tỏ nhu cầu gửi vốn cho các tổ chức chuyên nghiệp của người dân rất cao.

(Theo www.laodong.com.vn)

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/quy-dau-tu-lua-chon-thich-hop-cho-cong-chung.html

Chức năng và hoạt động của quỹ đầu tư



Saturday, 14 July 2007

Quỹ đầu tư là một doanh nghiệp cổ phần, phát hành chứng chỉ quỹ để chứng nhận phần góp vốn của cổ đông.

Nguồn vốn của quỹ hình thành từ các tập đoàn, tổ chức, các công ty, dân chúng... Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến hai dạng quỹ đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam là Quỹ VF1 và PRUBF1.

4 loại quỹ cơ bản

Quỹ đầu tư đa dạng hoá cổ phiếu thường: Danh mục đầu tư của quỹ phần lớn là cổ phiếu thường. Quỹ phân tích thị trường kết hợp với mục tiêu của quỹ để lập một danh mục đầu tư gồm các cổ phiếu thượng hạng của các công ty hàng đầu (blue-chips) và các cổ phiếu tăng trưởng. Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (Quỹ VF1) của Công ty quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) chính là loại này.

Quỹ cân bằng: Quỹ này duy trì tỉ lệ cân đối với tài sản của quỹ bằng lập danh mục đầu tư hợp lý giữa trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường, vì vậy nó dung hoà tính chất mạo hiểm của cổ phiếu và tính chất an toàn của trái phiếu. Quỹ này thường có tỉ trọng đầu tư trái phiếu lớn hơn so với cổ phiếu. Hiện tại ở Việt Nam có một quỹ dạng này là Quỹ đầu tư cân bằng Prudential ("PRUBF1") của công ty quản lý Quỹ đầu tư Prudential Việt Nam (PVFMC).

Dựa vào hình thức phát hành, có thể chia thành hai loại quỹ cơ bản là quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở.

Quỹ đầu tư dạng đóng thường chỉ tạo vốn qua một lần bán cho công chúng với một số lượng nhất định, không được phát hành thêm để huy động vốn và cũng không được mua lại các chứng chỉ quỹ đã phát hành.

Giá thị trường cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng đóng phụ thuộc vào lượng cung cầu như khi áp dụng đối với các loại chứng khoán khác, ít phụ thuộc nhiều vào giá trị tài sản thuần. Quỹ dạng đóng dùng số vốn của mình đầu tư vào các doanh nghiệp hay thị trường chứng khoán. Sau đó dùng vốn và lãi thu được để đầu tư trực tiếp. Như vậy quy mô vốn của loại quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản lợi nhuận thu được.

Quỹ đầu tư dạng mở: Loại này, quỹ có thể phát hành thêm chứng chỉ quỹ để tăng vốn khi vẫn còn nhà đầu tư muốn mua và công ty sẵn lòng chuộc lại những chứng chỉ đã phát hành. công ty cũng sẵn sàng mua lại chứng chỉ của cổ đông với bất cứ số lượng nào và thời gian nào cổ đông muốn.

Đầu tư vào quỹ

Với các nhà đầu tư không chuyên, khi uỷ thác vốn hay mua chứng chỉ quỹ của các quỹ đầu tư, nhà đầu tư có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư với số tiền không lớn.

Ngoài ra, nhà đầu tư có thể gián tiếp sử dụng được kiến thức và kinh nghiệm của các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp.

Tham gia vào quỹ, nhà đầu tư có thể theo dõi tình trạng đầu tư của mình nhờ tính minh bạch cao. Luật quy định các quỹ phải báo cáo thay đổi tài sản ròng định kỳ, do vậy nhà đầu tư luôn biết được các tình trạng khoản đầu tư của mình.

(Theo www.laodong.com.vn)

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/chuc-nang-va-hoat-dong-cua-quy-dau-tu.html

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009

Mua cổ phiếu trên thị trường tự do như thế nào?


Saturday, 14 July 2007

Quyền mua cổ phiếu (CP) cho phép người nắm giữ có quyền (nhưng không phải là nghĩa vụ) được mua một số lượng CP xác định trước với một giá đã xác định trước và thấp hơn giá hiện hành của CP đó trên thị trường.

Theo một số nhà tạo lập thị trường tự do, để có được nguồn cung cổ phiếu cho thị trường này, họ phải có một đội ngũ chân rết (gọi là các tay cò cổ phiếu) ở khắp nơi đi tìm mua cổ phiếu của các công ty cổ phần.

Việc chuyển nhượng cổ phiếu sẽ được tiến hành theo cách các cổ đông cũ làm giấy chuyển nhượng cổ phiếu cho các tay cò nhưng phần “Người mua” sẽ để trống. Sau khi ký được hợp đồng với người bán, nhiệm vụ của các cò cổ phiếu là làm việc với công ty phát hành để công ty ký xác nhận vào hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu, chấp nhận người mua là cổ đông mới của công ty (mặc dù chưa biết đích danh). Sau khi có cổ phiếu, nhà tạo lập thị trường tự do sẽ chào bán theo giá tự đặt, nếu có người mua tương ứng, họ chỉ cần sang chuyển số cổ phiếu đó cho người mua kèm hợp đồng chuyển nhượng ghi tên nhà đầu tư vào chỗ để trống. Như vậy về mặt pháp lý, nhà đầu tư có thể yên tâm khi sở hữu lượng cổ phiếu mua ngoài luồng này.

Hiện nay, trên thị trường không chính thức, các loại cổ phiếu sắp niêm yết là đối tượng được săn lùng nhiều nhất. Lý do của hiện tượng này rất đơn giản: chỉ cần nhìn vào chiều hướng tăng giá liên tục trên thị trường chính thức là nhà đầu tư có cơ sở để kỳ vọng vào sự tăng giá của các cổ phiếu hứa hẹn lên sàn. Để tham gia thị trường này, nhà đầu tư chỉ cần liên hệ với một trong số rất nhiều cò chứng khoán (có thể dễ dàng gặp họ trên các sàn giao dịch, trong các quán cafe...) và đưa ra yêu cầu là sẽ được chỉ dẫn tận tình. Nếu bạn muốn mua cổ phiếu mà họ đang có sẵn nguồn cung thì chỉ việc đi đến một thỏa thuận về giá. Nếu cổ phiếu bạn yêu cầu không có sẵn trong “két” của các tay cò, họ sẽ sẵn sàng tìm đến công ty bạn đặt mua để săn cổ phiếu giúp bạn. Nét nổi bật của thị trường này là giá cả chỉ được xác định trên cơ sở thỏa thuận, điều này tạo cho các tay cò một quyền rất lớn trong việc định giá. Mặc dù hiện nay, có nhiều tay cò tham gia hoạt động trên thị trường không chính thức nên giá cả cũng tương đối có tính cạnh tranh, nhưng hiện nay, thị trường này không được quản lý, thông tin đến với nhà đầu tư lại không đầy đủ thậm chí nhiều khi bị méo mó, nên việc đầu tư vốn vào thị trường này còn rất “mò mẫm” và phụ thuộc nhiều vào sự may rủi.

(Theo RV)

source

http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/mua-co-phieu-tren-thi-truong-tu-do-nhu-the-nao.html

Thủ thuật 'thổi' cổ phiếu



Saturday, 14 July 2007

Chỉ trong vòng chưa đầy một tháng, có doanh nghiệp đã "thổi" được cổ phiếu của mình từ 10.000 đồng lên 30.000 đồng. Cách phù phép của doanh nghiệp này rất bài bản.

Đó là một đơn vị thuộc tổng công ty trong ngành xây dựng, đã cổ phần hóa được gần bốn năm. Khi cổ phần hoá, cán bộ, nhân viên công ty buộc phải mua cổ phần vì sợ mất việc. Vận động mãi nhưng công ty cũng không bán hết được số 49% cổ phần mà doanh nghiệp đã lên kế hoạch bán cho cán bộ, công nhân. Phần còn ế lại trị giá đến trên 5 tỷ đồng. Cho đến tận cuối tháng 11/2006, hơn 5 tỷ đồng vẫn nằm im trong sổ sách tài chính của doanh nghiệp. Cách đây vài tháng, nhiều nhân viên vớt vát, bán cổ phần của mình với giá 8.000 đồng/cổ phiếu, trong khi mua của công ty với giá 10.000 đồng. Nhưng đùng một cái, trong vòng chưa đầy 30 ngày, doanh nghiệp này đã "thổi" cổ phiếu của mình lên tới 3 lần mệnh giá. Họ đã làm như thế nào? Cuối tháng 11/2006, những người đứng đầu doanh nghiệp úp úp mở mở sẽ tham gia góp vốn xây dựng thủy điện, rồi công ty sẽ lên sàn. Đây là những thông tin rất có ý nghĩa đối với cổ phiếu của doanh nghiệp này, vì hiện tại giá cổ phiếu của các công ty cổ phần điện ít nhất là gấp 2-3 mệnh giá ban đầu. Còn các đơn vị khác trong cùng tổng công ty, khi lên sàn chứng khoán, giá trị của cổ phiếu tăng 7-8 lần so với mệnh giá. Để các nhà đầu tư tin tưởng hơn, người ta bày ra cách phân chia quyền lợi được mua số cổ phần còn ế. Nếu để một cục, hơn 5 tỷ đồng là lớn nhưng nó sẽ chẳng thấm tháp gì khi chia đều cho hàng trăm lao động đang làm việc tại công ty. Thông tin chỉ có lãnh đạo công ty mới được ưu tiên mua nốt số cổ phần còn lại được cán bộ, nhân viên công ty tung ra ngoài.

Bằng những thủ thuật trên, trong vòng chưa đầy hai tuần, hơn 5 tỷ đồng cổ phần ế gần bốn năm trời đã bán hết sạch. Không chỉ bán hết, cổ phiếu của công ty này còn lên chóng mặt. Trong khoảng một tháng, từ 10.000 đồng/cổ phiếu lên 30.000 đồng/cổ phiếu. Người ta mua không cần biết tình hình thực tế kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào, chỉ người nọ truyền tai người kia. Hỏi một người vừa mua 1.000 cổ phiếu của đơn vị này về báo cáo tài chính của doanh nghiệp, chị cho biết: "Mua được là may rồi, mình đưa tiền cho họ rồi họ viết mấy chữ cho mình là xong chứ làm gì có báo cáo".

Dự án mà doanh nghiệp dự định góp vốn tham gia xây dựng, đến thời điểm này vẫn chỉ tồn tại ở miệng các "sếp". Giám đốc một công ty nằm trong cùng tổng công ty với doanh nghiệp trên cho hay, đúng là cách Tết Nguyên đán khoảng 1 tháng, công ty đó có xin với tổng công ty để được góp vốn với một số doanh nghiệp khác xây dựng thủy điện, nhưng mới đây tổng công ty không đồng ý. Còn chuyện lên sàn chứng khoán thì chỉ có trưởng phòng kế toán tài chính và giám đốc công ty mới rành.

Năm 2006, công ty thông báo lãi 5 tỷ đồng(vốn điều lệ 150 tỷ đồng) nhưng cơ quan kiểm toán chỉ công nhận có một nửa số đó. Lương cán bộ, nhân viên của công ty đã 2-3 năm nay chẳng có gì thay đổi, lương tháng sau mới trả cho tháng trước.

Hiện nay, hiện tượng các doanh nghiệp thổi giá cổ phiếu không phải ít. Một trường hợp khác, giám đốc một công ty trong tổng A, tỏ nhã ý giúp đỡ những người bạn thân thiết: "Chỗ mình còn một ít cổ phiếu chưa bán hết, đợt này mọi người tranh giành nhau mua nhưng tớ sẽ ưu tiên cho cậu vài chục triệu. Tôi cũng sẽ góp vốn xây dựng thủy điện. Ông tin tôi đi, từ nay đến giữa năm 2007, tôi sẽ thổi 20 triệu của ông lên thành 60-70 triệu".

(Theo Thanh Nien)

source http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/thu-thuat-thoi-co-phieu.html

Qui tắc, kĩ năng trí não và tâm lý trong giao dịch


Qui tắc, kĩ năng trí não và tâm lý trong giao dịch
Saturday, 14 July 2007

Có phải bạn đang tìm kiếm những câu trả lời làm sao để trở thành một chuyên gia về giao dịch? Hoặc bạn vẫn đang cố gắng để là một nhà giao dịch có lợi nhuận? Việc mua bán không dễ như nhiều người đã nghĩ, ngoài những người đã cố gắng thật sự thì có hơn 90% là bị lỗ.

Kinh nghiệm giao dịch của tôi trải qua suốt 2 thập kỷ, và cũng vừa là một nhà cố vấn giao dịch, tôi đã có những cuộc nói chuyện với nhiều nhà giao dịch, nhiều người trong số họ đã nỗ lực rất lớn để kiếm bất kì những khoản lợi nhuận nào sau nhiều năm giao dịch và họ tiếp tục tích góp thêm vào các tài khoản giao dịch của mình.

Hầu hết các nhà giao dịch không nhận ra rằng các giao dịch thành công đến từ sự tin tưởng và sự tự tin từ vào chính bản thân mình. Thật đơn giản. Một lối suy nghĩ của một kẻ đắc thắng! Giao dịch để thành công, chứ không giao dịch để thua lỗ. Thật sự thì giao dịch như tất cả các bạn biết, đó là một trò chơi có tổng số điểm là 0. Bạn cũng có thể là người chiến thắng hoặc là một kẻ thua cuộc. Taị sao một nhà giao dịch lại để thua lỗ chồng chất? Tại sao một nhà giao dịch khác lại chộp lấy ngay một khoảng lợi nhuận và không để tụt mất? Khi bạn mắc phải sai lầm, tại sao lại không thừa nhận? Tất cả những câu trả lời nằm ngay bên trong những câu hỏi này. Đó là tâm lý trong giao dịch chứ không phải là kiến thức chuyên môn. Vì bất kì ai lên một kế hoạch giao dịch, việc đầu tiên bạn phải làm là phải hiểu rõ chính bản thân bạn. Điều này có vẻ ngớ ngẩn, nhưng 95% các kế hoạch giao dịch mà tôi gặp qua đã không quan tâm đến khía cạnh quan trọng này.

Khi đó câu hỏi đặt ra là, ”Tại sao một vài người lại giao dịch có lời còn hầu hết thì không?”

Trước tiên, hãy suy nghĩ về điều này. Mỗi nhà giao dịch có phương tiện để tiếp cận những công cụ như nhau, tra cứu như nhau, những biểu đồ như nhau, những chú giải như nhau, những cách thức giao dịch đã được chứng minh như nhau, v.v… Vậy, tại sao với mọi người có phương tiện dẫn đến cùng một thứ, chỉ một vài người là có thể tạo ra lợi nhuận một cách chắc chắn mọi lúc?

Rõ ràng đặc điểm chung là con người. Vâng, chính là bạn đấy!

Vì vậy, nếu ai đó yêu cầu tôi hãy liệt kê một danh sách gồm 3 đặc điểm về tâm lý/cảm xúc nổi bật để chỉ ra phần lớn những nhà giao dịch ngoại hối thành công, tôi sẽ liệt kê rằng:

Quy tắc và đam mê

Tự tin và can đảm

Kiên nhẫn và bền bỉ

Một người có thể có một phương pháp luận về giao dịch tốt và có hệ thống, nhưng tâm lý không vững thì cũng giống như là đã thất bại. Ngược lại một người chỉ có một phương pháp giao dịch tầm thường, nhưng có những quy tắc vững chắc với những kỹ năng tâm lý mang tính trí tuệ là người sẵn sàng để chiến thắng. Một nhà giao dịch mà tôi đã gặp gỡ gần đây không biết gì về Macd, hoặc stochastics hoặc RSI hoặc Elliott Wave. Ông ta có một phương pháp rất giao dịch rất đơn giản là xem xét các mô hình cơ bản và xu hướng - đó là tất cả những gì ông ta làm, và ông ta đã tạo ra một cách chắc chắn hơn 700 pip lợi nhuận trong giao dịch ngoại hối.

Ông ta có một phương pháp đơn giản, một bộ những quy tắc, đưa ra những mục đích có thể đạt được và mang tính thực tế - và tất cả những điều ông ta làm là làm theo những quy tắc đơn giản này! – Không có theo quy tắc cứng nhắc nào. Gần đây một nhà giao dịch nói với tôi rằng “Tôi thường đọc những quyển sách rất hay của Elder, Mark Douglas, Toni Turner, quá trình diễn biến về tỷ giá trong ngày của Nison, Edwin Lefevre v.v… Tuy nhiên, sau khi đọc những quyển sách này tôi vẫn cố tìm kiếm điều “bí mật” để giao dịch thành công và cũng không chắc về phương pháp của mình. Tôi đã nhận ra rằng điều “bí mật” để giao dịch thành công là không có điều bí mật! Và tôi cũng khai thác một phương pháp từ những kế hoạch có hiệu quả phù hợp với tâm lý và phong cách của tôi, và quan trong hơn là tôi đã đề ra một kế hoạch giao dịch”

QUY TẮC VÀ ĐAM MÊ

Những quy tắc – Đa phần những nhà giao dịch không tuân thủ những quy tắc của mình, thêm vào đó họ cũng thường không thất bại. Những nhà giao dịch thất bại này dễ dàng căm ghét khi nghe nhắc đến chữ “quy tắc”! Giống như Jack Schwager đã nêu ra trong quyển sách của ông ta, quyển ‘The new market Wizards' , “Quy tắc” có lẽ là một từ thông dụng nhất được dùng bởi nhiều nhà giao dịch cá biệt mà tôi đã gặp. Thông thường nó được đề cập với giọng điệu gần như mang sự hối tiếc: “Tôi biết là bạn đã nghe điều này hàng triệu lần trước đây, nhưng hãy tin tôi, nó thật sự rất quan trọng.”

Những quy tắc cho phép bạn lập kế hoạch hiệu quả hơn cho công việc cuả bạn (những giao dịch) và làm việc (giao dịch) theo kế hoạch của mình. Quy tắc – “thói quen và sự tuân thủ” – vâng từ khoá chính là thói quen, tức là có một kế hoạch giao dịch và một thói quen làm theo nó. Quy tắc vàng nên là: Không có thời cơ – Không có buôn bán.

Đam mê – 1/3 cuộc đời của chúng ta là dành cho công việc, do vậy bạn đáng được hưởng thụ cái mà bạn làm, bạn làm điều đó bởi vì bạn yêu thích! - Vâng phần thưởng bằng hiện kim là kết quả phụ của sự thành công cho những việc mà bạn muốn làm.

Làm sao bạn có thể thành công một cách tự nhiên trong một việc gì đó, mà nó phù hợp với những kỹ năng giao dịch của bạn, tìm kiếm những lời khuyên từ các nhà cố vấn dày kinh nghiệm, chịu đựng những thăng trầm trong giao dịch và bạn cũng không biết tại sao bản thân lại đang làm việc này? Như Michael Jordan đã từng nói, “Nếu như bạn có sự yêu thích một cuộc chơi, thì với tài năng của mình, cuối cùng bạn cũng sẽ theo kịp cuộc chơi“. Như thế thì, nếu bạn không yêu thích giao dịch vậy bạn sẽ thành công chứ?

Tóm lại, kỹ năng mang tính trí tuệ này bao gồm cả hai là (quy tắc và đam mê): bạn phải có quy tắc của mình và không bị chi phối bởi những biến động nhạy cảm còn lại của thị trường.

TỰ TIN VÀ CAN ĐẢM

Điều đầu tiên trong những nét đặc trưng cơ bản của những nhà giao dịch thành công là tin tưởng vào chính bản thân mình. Họ có sự tự tin và lòng can đảm để gắn bó với kế hoạch của mình, không đi lệch hướng khỏi những quy luật cuả bản thân, và sẵn sàng đi ngược lại với đa số nếu cần thiết, và nhìn thấy được kết quả cuối cùng (một hình ảnh rõ ràng) trong đầu họ.

Thông thường, mỗi nhà giao dịch có được gì? Trong quyển sách “Bộ bài poke, tình dục, sự hấp hối” nói rằng: “Bài poke là một loại trò chơi dễ gây kích động bao gồm tiền bạc, nhận thức và những cảm xúc. Nó không đủ để biết, để có những thông tin và nhìn nhận thấu đáo về đối thủ của bạn (thị trường), bạn cần phải hiểu về chính bản thân bạn”. Vì thế, trong kế hoạch giao dịch của mình, bạn phải có một phần dành riêng cho bản thân - để biết về chính mình.

Trong những ngày đầu khởi nghiệp giao dịch của mình, tôi đã phải đối mặt với một tình huống là tôi “biết” rất rõ ràng nơi nào giá cả đang lên, đã có một kế hoạch giao dịch, nhưng tôi lại thất bại khi theo đuổi nó. Tất nhiên, tính tham lam, sự sợ hãi, và những cảm xúc khác nữa đã chiếm ngự trên mỗi định hướng của chúng ta. Khi mà bạn để điều đó xảy ra với bạn… tất cả kiến thức của bạn, kế hoạch và những thông tin nhanh chóng trở thành vô dụng.

Nói cách khác, bất chấp bạn giỏi giang như thế nào trong việc phân tích thị trường, nếu bạn không có sự tự tin, mọi việc bạn đang làm sẽ tạo ra những nếm trải lặp đi lặp lại làm cho bạn phải đối phó với những cái tương tự như nỗi thất vọng và sự giận dữ.

Làm thế nào để có được sự tự tin? Bạn hãy thu nhặt kiến thức, rèn luyện về nhân cách, và lớn lên như mọi người. Bạn nghiên cứu càng nhiều về thị trường, càng tiếp cận việc giao dịch trên thị trường, và quan trọng hơn là tiếp cận với chính bạn nhiều bao nhiêu, bạn sẽ càng trở thành một thương nhân có năng lực bấy nhiêu. Càng có năng lực bao nhiêu, bạn sẽ càng ít sợ sệt bấy nhiêu. Tự tin nghĩa là rất ít sợ sệt. Khi bạn tự tin, bạn có thể chiến thắng.

KIÊN NHẪN VÀ BỀN BỈ

Trong thời đại của sự tìm kiếm lợi nhuận chớp nhoáng như hiện nay, người ta muốn mạo hiểm nhưng không rủi ro, rượu không cồn, nhiều tiền mà không cần nỗ lực, uống bia không có cảm giác cồn cào, và tất nhiên, một thương vụ sinh nhiều lợi nhuận mà không cần phải làm thêm ở nhà.

Thị trường biết nhiều thứ hơn cả bạn và tôi, bạn cần phải kiên nhẫn và chờ đợi một thời cơ thích hợp – quy tắc vàng là: Không có thời cơ – Không có buôn bán.

Một trader thành đạt nhận thức rõ sự kiên nhẫn là rất đáng giá.! Mọi trader thành công đều có một khả năng đặc biệt để “trông đợi và chờ đợi” và chờ cho đến khi nào việc giao dịch là hợp thời để tiến vào thị trường. Một thương nhân giao dịch ngọai hối khôn ngoan đặc biệt sẽ biến sự kiên trì thành ưu điểm của anh ta/cô ta bằng cách:

Lắng nghe thị trường. Thị trường luôn luôn cung cấp những thông tin kinh tế đáng giá, và bạn phải nhận thức được nơi nào bạn nhận ra sự đòi hỏi gì của thị trường từ những động thái của nó hoặc tín hiệu của hệ thống giao dịch. Sự đánh giá của bạn sẽ trở nên nghèo nàn từ ngay lúc bạn quyết định sẽ biết nhiều hơn về thị trường hơn là những gì thị trường sẽ mách bảo với bạn, và bạn đánh mất lòng kiên trì thay vào đó là nỗi sợ sệt và niềm hy vọng.

Ngồi một chỗ trong khi chờ đợi một xu thế phát triển. Người ta thường nói rằng nhìn vào màn hình máy tính của một ai đó trong suốt những ngày buôn bán như thể ngồi trước một cái máy bán hàng tự động và cố gắng chịu đựng những trò mạo hiểm. Những nhà giao dịch thành công ở thị trường ngoại hối đã học được rằng họ không thể khoác lác về đa số xu hướng giá cả của những cặp tiền tệ riêng lẽ mà họ đang trao đổi. Bạn thì vẫn không muốn trở nên thiếu kiên nhẫn bởi vì bạn đang buôn bán chống lại xu hướng đó.

Trong khi kiên nhẫn không những quan trọng trong việc chờ đợi một cuộc làm ăn đúng đắn, nó còn quan trọng trong khi bạn đang thực hiện một cuộc làm ăn nào đó. Bạn phải biết làm thế nào để chờ đợi một cách kiên nhẫn cho thời gian tối ưu nhất để giao dịch. Một người đang lời bán quá sớm sẽ không cho bạn sự cân bằng tính toán để gia tăng thật nhanh ở một tỉ lệ lý tưởng. Vì thế, đây là nơi mà nhân tố bền bỉ cần có mặt. Bạn có thể “kiên trì” cho đến thị trường lên lại , nhưng bạn không thể bền bỉ tới mức có thể kiềm chế sự chịu đựng và không theo những quy tắc đóng lệnh khoa học, và lợi nhuận của bạn sẽ không cân bằng với sự tổn thất vượt thời gian.

“Kiên nhẫn với những cuộc làm ăn mà bạn có thể chiến thắng; thiếu kiên nhẫn đi với những cuộc làm ăn thất bại. Hãy nhớ rằng, có thể thực hiện được số lượng lớn các cuộc làm ăn/sự đầu tư nếu bạn “đúng” chỉ với 30% thời gian miễn là sự tổn thất nhỏ và lợi nhuận là lớn” – Dennis Gartman

Thành công trong giao dịch phụ thuộc vào kiến thức nghiên cứu về phân tích khủng hoảng công nghệ, công cụ thương mại, thói quen quản lý tiền bạc lành mạnh, và làm thế nào để chế ngự cảm xúc. Kiến thức đến từ nhiều giai đoạn: tự học, học nhóm, học ở lớp và sự luyện tập điều độ. Nó sẽ đưa bạn đến gần mức chuyên nghiệp. Sau đó, sẽ thêm một chiều hướng nữa là huấn luyện cá nhân cho đến khi vươn tới vị trí cao nhất và giữ vững vị trí đó trong suốt sự nghiệp chuyên nghiệp.

Bạn có thật sự cần một người cố vấn hay một người huấn luyện? Người chơi golf giỏi nhất thế giới thì nghĩ vậy! Tiger Woods chi trả cho sự huấn luyện hơn một triệu đôla mỗi năm! Trong khi đó, anh ta kiếm được 50 triệu đôla mỗi năm. Thực tế, tất cả các vận động viên chuyên nghiệp đều có chế độ huấn luyện riêng để giúp họ trở nên giỏi hơn. Nguyên nhân bạn chọn để chi trả tiền cho huấn luyện là để rút ngắn thời gian mà bất kì người thương nhân nào cũng phải trải qua, trong khi gia tăng khả năng thành công của bạn; nó là cái giá của việc làm giao dịch. Nên nhớ nếu bạn đang hoặc muốn trở thành một người giao dịch chuyên nghiệp, điều đó nghĩa là bạn đang giao dịch.

Ngày nay người giao dịch đang may mắn vì họ có nhiều điều kiện thuận lợi và tiếp cận nhiều tài liệu. Khi mà tôi bắt đầu giao dịch cách đây 2 thập kỉ, có rất ít nguồn tài liệu cho một người giao dịch nhỏ lẻ, một số được nghe nói về khoá huấn luyện thương mại và người huấn luyện, không có Internet và vì thế, không có những sự chia sẻ cộng đồng như T2W – giao dịch thật đơn độc.

Sau 10 năm giao dịch, nhìn chung, tôi là kẻ thua cuộc. Giai đoạn đó bao gồm việc đa số thị trường chứng khoán sụp đổ, như là sự kiện năm 1987 và chiến tranh vùng Vịnh năm 1991. Giao dịch rất khó khăn. Việc làm ăn của tôi đã bước sang một giai đoạn mới khi tôi đến hội chợ Forex tại Mỹ và được giới thiệu một khóa học về giao dịch.

Tôi đã tìm kiếm các tiện ích của khóa học; tiêu điểm chính của khóa học của tôi là về tâm lý học, một lĩnh vực mà tôi đã từng từ chối những năm về trước. Cuộc đời doanh nhân của tôi thay đổi vĩnh viễn và tôi đã không hề nhìn lại, giao dịch trở nên dễ dàng và tôi có thể thực hiện những cuộc làm ăn với sự đơn giản hơn nhiều.

Như tôi đã thường nói, từ chối xu thế khi mà nó đầy nguy hiểm; ngày nay tôi nói thêm rằng nếu bạn chối bỏ tâm lý trong giao dịch, bạn có thể sẽ không thành công.

“Người thất bại là người chưa từng tìm hiểu những sai lầm của bản thân anh ta, nếu bạn có thể học hỏi từ những kinh nghiệm, bạn sẽ bước trên con đường dẫn đến thành công – Jay Lakhani.

JayLakhani

source

http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/qui-tac-ki-nang-tri-nao-va-tam-ly-trong-giao-dich.html

phân tích chiến lược của doanh nghiệp


phân tích chiến lược của doanh nghiệp
Wednesday, 04 July 2007

Phân tích chiến lược của doanh nghiệp là việc nghiên cứu thuần tuý về doanh nghiệp. Ngoài bảng tổng kết tài sản và bảng cân đối tài khoản, nó còn dựa trên một số yếu tố khác. Việc phân tích chiến lược có thể bao gồm:

Lịch sử của doanh nghiệp

Đôi khi việc nghiên cứu quá khứ của một doanh nghiệp là điều rất có ích để có thể hiểu rõ được chiến lược phát triển của nó hiện nay và trong tương lai. Ngoài ngày thành lập, điều có thể tạo thuận lợi cho việc theo dõi khả năng thích ứng của doanh nghiệp, phương thức thành lập doanh nghiệp cũng là một lợi ích không nhỏ.

Hãy lấy ví dụ một doanh nghiệp tư nhân được điều hành trong hàng thập kỷ bởi lần lượt các thế hệ ông, cha và con. Nó sẽ có xu hướng giảm tốc độ phát triển. Điều này cho phép chủ doanh nghiệp giữ vững quyền lực. Ngược lại, một doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ bằng việc thâu tóm một cách thù địch các doanh nghiệp khác sẽ hầu như không có sự thay đổi trong chiến lược của nó trong tương lai, trừ phi có biến động lớn về cơ cấu quyền lực.

Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực cũng quan trọng tương đương với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của doanh nghiệp có thể sẽ mất dần theo thời gian nhiều vụ đầu tư vào các hợp đồng tương lai đã làm biến mất hoàn toàn khả năng tài chính của nhiều công ty đa quốc gia, nhưng rất hiếm khi một doanh nghiệp bị mất hoàn toàn năng lực của nhân viên của nó. Mặt khác, tuy đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng vừa mất nhiều thời gian vừa tốn kém hơn là thay đổi kỹ thuật sản xuất nhưng không phải khi nào máy móc cũng có thể thay thế con người. Một doanh nghiệp có hai dạng nhân lực:

Người lãnh đạo

Một vài người lãnh đạo có thể có tiếng tăm nhiều hay ít. Người ta có thể kể đến những tên tuổi như Michel Bon, cựu Chủ tịch của Carrefour và nay là chủ tịch của France Télécom, hay như Christian Blanc, cựu chủ tịch của Air France. Trong cả hai trường hợp, khả năng của người lãnh đạo có thể là nguyên nhân của sự thành công của các doanh nghiệp mà họ điều hành. Người ta cũng có thể phân biệt giữa người lãnh đạo những công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Người lãnh đạo công ty cổ phần thường có tầm nhìn xa hơn nhiều so với chủ các doanh nghiệp tư nhân. Các nhà lãnh đạo sắp đến tuổi nghỉ hưu cũng có xu hướng hạn chế việc theo đuổi những dự án cỡ lớn. Điều này có nguy cơ làm giảm khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp trong nhiều năm sau. Chính vì thế, tuổi tác cũng có tầm quan trọng như là khả năng quản lý của người lãnh đạo.

Người lao động: bao gồm cả cán bộ và công nhân viên. Đây chính là hạt nhân của năng lực phát triển của doanh nghiệp. Người lao động có năng lực cao có thể không ngừng cải thiện các điều kiện làm việc và qua đó, cải thiện cả những sản phẩm cuối cùng. Những chi phí đào tạo và quá trình tuyển dụng các nguồn nhân lực phải được nghiên cứu một cách tỷ mỷ. Trên thực tế, một vài doanh nghiệp như IBM đã theo đuổi một chính sách tuyển dụng có thể được gọi là “vô tính”. Tất cả những nhân viên mới của nó đều được đào tạo và hướng nghiệp giống hệt những người cũ. Chính sách tuyển dụng này đã giải thích một phần sự chậm trễ của IBM trong công nghệ viễn thông vào đầu những năm 90.

Nguồn lực tài chính. Chiến lược của một doanh nghiệp DN phải được đặt trong mối quan hệ với khả năng tài chính của nó. Người ta sẽ suy nghĩ như thế nào về một DN khẳng định mong muốn phát triển nhờ vào những nguồn lực bên ngoài, vay nợ nhiều nhưng lại không có tài sản gì đáng kể? Một DN phải có đủ phương tiện để thực hiện tham vọng của nó, nhưng không cần dư. Thực tế, thật vô ích nếu DN có lượng tiền mặt rất dồi dào nhưng lại không được đem ra đầu tư mà chỉ đem gửi vào các tài khoản vãng lai tại ngân hàng. Một DN có tiền rảnh rỗi đem đầu tư vào những dự án ngắn hạn còn lãng phí hơn nhiều so với việc vay tiền để đầu tư.

Công cụ sản xuất. Nhằm mục đích nghiên cứu và phát triển, những chi phí cho việc đầu tư vào các tài sản hữu hình là hoàn toàn cần thiết. Ví dụ như khi bạn đầu tư vào máy móc thiết bị, nguyên tắc đánh thuế không cho phép bạn khấu trừ toàn bộ chi phí đầu tư ngay trong năm đầu. Nó phải được khấu hao từng phần trong nhiều năm. Vậy, khi bạn nhận thấy có sự giảm sút về các khoản khấu hao, cũng có nghĩa là tăng về kết quả kinh doanh, cần phải đặt ra một vài câu hỏi. Tại sao khấu hao giảm sút? Có phải nó xuất phát từ việc máy móc thiết bị đã lỗi thời? Hoặc DN không có dự án đầu tư khả thi? Trong những trường hợp này, DN có nguy cơ thụt lùi về sản xuất trong những năm tới, hoặc sẽ suy giảm khả năng cạnh tranh. Việc nghiên cứu chính sách đầu tư của DN vào công cụ sản xuất cũng là điều rất cần thiết trong việc phân tích chiến lược.

Sản phẩm. Để giảm bớt những rủi ro gắn liền với hoạt động sản xuất của nó, DN cần phải đa dạng hóa sản phẩm. Trong quá khứ đã có nhiều DN cố bám vào việc sản xuất sợi amian để rồi khi thức dậy vào một buổi sáng nào đó, đã thấy hoạt động của mình bị cấm. Một số DN khác chuyên sản xuất bàn tính cũng sẽ lâm vào tình trạng thê thảm khi không nhận thấy được sự phát triển mạnh mẽ của thời đại vi tính. Tất cả những ví dụ này chỉ ra rằng một DN chuyên doanh có thể sẽ không tồn tại nếu sản phẩm duy nhất của nó rơi vào khủng hoảng. Ngược lại, một DN biết cách đa dạng hóa sản phẩm sẽ không đến nỗi phải hy sinh quá nhiều khi có những quy định mới của luật pháp có thể sẽ hạn chế một trong những hoạt động của nó.

Nhưng số lượng không phải là tất cả. Thực tế, một sản phẩm có thể được sinh ra, lớn lên và chết đi. Nó có cuộc sống của chính nó. Như vậy, danh mục sản phẩm của một DN cần phải được sắp đặt một cách cân đối giữa những sản phẩm có chu kỳ phát triển khác nhau.

Chiến lược kinh doanh. Chiến lược kinh doanh cần nghiên cứu không phải là phương thức phân phối sản phẩm của doanh nghiệp mà là cách phân chia những giới khách hàng khác nhau trong tổng doanh thu của nó. Trên thực tế, một doanh nghiệp luôn phải phụ thuộc vào khách hàng và nhà cung cấp. Hãy thử tưởng tượng rằng một khách hàng chiếm tới hơn 50% doanh số của bạn. Điều gì sẽ xảy ra cho sự ổn định của bạn nếu khách hàng đó chuyển sang mua hàng của một nhà cung cấp khác? Tình trạng tương đối đơn giản, DN có tới 95% khả năng phải tuyên bố ngừng thanh toán các khoản nợ ít nhất trong vài tháng. Như vậy, DN phải chịu dưới cơ khách hàng này và sẽ phải chấp nhận những điều kiện ưu đãi hơn. Điều này về lâu dài sẽ đưa DN tới những khó khăn về tài chính. Vì lý do đó, điều quan trọng đối với một doanh nghiệp là không nên quá tập trung vào một nhóm khách hàng. Có nhiều khách hàng nhỏ còn hơn là có một số khách hàng lớn.

Nghiên cứu và phát triển. Việc nghiên cứu và phát triển là những chi phí cho hôm nay nhưng lại là thành quả cho ngày mai. Một DN có trình độ khoa học kỹ thuật cao sẽ có nhiều điều kiện hơn để phát triển mạnh mẽ. Do vậy, việc tìm hiểu về vấn đề nghiên cứu và phát triển đóng vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là sự biến động của nó theo thời gian. Một sự giảm sút về hoạt động nghiên cứu và phát triển luôn luôn cần phải được giải thích. Ngược lại, một việc gia tăng đột ngột hoạt động này cũng có thể ẩn dấu những chi phí không được kiểm soát.

(Theo TTGDCK)

source

http://chungkhoan24h.com/kinh-nghiem-dau-tu/phan-tich-chien-luoc-cua-doanh-nghiep.html