Thứ Bảy, 27 tháng 3, 2010

Luật sư Nguyễn Đỗ Phủ và vụ án Nexus


Việt Nam Cập nhật Thứ Bảy, 27 tháng 3 2010

Luật sư Nguyễn Đỗ Phủ và vụ án Nexus

Như chúng tôi đã đưa tin, tuần trước, có ba Việt Kiều là Nam Nguyễn, Kim Nguyễn và An Nguyễn ở thành phố Philadelphia đã nhận tội trước Tòa án liên bang Hoa Kỳ đã hối lộ các quan chức (...) để đổi lấy các hợp đồng bán hàng béo bở, vi phạm đạo luật chống tham nhũng ở nước ngoài. Dịp này, chúng tôi đã nhờ Luật sư Nguyễn Đỗ Phủ giải thích thêm một số điểm pháp lý xoay quanh vụ án Nexus, tên công ty của 3 Việt Kiều vừa nêu. Mời quý vị cùng theo dõi với Huy Phương.

Luật sư Nguyễn Đỗ Phủ

Luật sư Nguyễn Đỗ Phủ


VOA: Luật sư Nguyễn Đỗ Phủ ở California có nhiều kinh nghiệm qua các vụ tranh tụng thương mại, đặc biệt là vụ công ty phần mềm VNI của người Việt ở California, kiện đại công ty Microsoft về vấn đề bản quyền gõ chữ Việt trên máy tính. Xin ông tóm tắt đạo luật chống tham nhũng ở nước ngoài (FCPA).

LS Đỗ Phủ: Đạo luật chống tham nhũng của Hoa Kỳ có nghĩa là các công ty Hoa Kỳ khi ra nước ngoài làm ăn không thể dùng tiền của công ty để hối lội các quan chức của nước ngoài để lấy hợp đồng nào đó có lợi cho công ty mình.

Phần đông các nước dân chủ và văn minh trên thế giới đều có luật như vậy, chẳng hạn như Nhật Bản cũng có luật cấm nhân viên dùng tiền để hối lộ để ảnh hưởng đến nhân viên chính phủ của đệ tam quốc gia, những nước nghèo để có lợi nhuận và lấy hợp đồng về cho công ty của mình.

Cũng theo luật này, những người nào xài tiền công ty để hối lộ sẽ bị ở tù.

VOA: Luật này có đặt doanh nhân người Mỹ ở vào vị trí bất lợi so với doanh nhân các nước khác, ví dụ như Trung Quốc?

LS Đỗ Phủ: Một số công ty Mỹ đã đưa vấn đề này ra nhưng theo tôi nghĩ, và các công ty lớn của Mỹ cũng nghĩ luật này là một luật công bằng. Thứ nhất, Hoa Kỳ là một nước lớn, Nhật Bản cũng vậy. Hoa Kỳ tượng trưng cho tự do của thế giới trong vấn đề dân chủ, nhân quyền, một nước gọi là công bằng trong vấn đề pháp lý. Một nước như vậy mà lại cho phép làm những chuyện đó, dùng quyền lực của một đại công ty để ra ngoại quốc hối lộ để mang về lợi nhuận cho công ty của mình, thì trên phương diện pháp lý và thế đứng của Hoa Kỳ trên thế giới sẽ mất ngay hình ảnh của một nước lãnh đạo thế giới.

Cho nên đặt vào cương vị đàn anh không làm được, cương vị nhân bản cũng không làm được. Trung Quốc dù sao cũng là một nước cộng sản nên họ có thể làm được những chuyện đó.

VOA: Xin trở lại với vụ này. Chúng ta đang ở giai đoạn nào của vụ này?

LS Đỗ Phủ: Ba bị can này đã nhận tội. Thủ tục nó như thế này. Một khi mình bị chính phủ liên bang nắm, nếu mình xem qua lời complaint, buộc tội của chính phủ, thường thường 90% là mình thua; vì phía liên bang họ có tiền, có FBI, có các nhân viên điều tra khác.

Người luật sư biện hộ cho các vụ này thường thường họ thương lượng với chính phủ để giảm tội, vì nếu mình ra tòa mình cãi thì họ lại tăng thêm điểm của mình. Tức là anh nhận được complaint, anh ra anh cãi, họ lại tăng thêm điểm, anh ra anh nói xạo, họ lại tăng thêm điểm. Những điểm đó cộng lại khiến cho bản án mình trở thành nặng hơn. Còn nếu mình plea, thương lượng sớm với chính phủ, nếu mình nhận tội sớm thì yếu tồ giảm khinh mình sẽ có nhiều hơn.

Cho nên trong trường hợp này các luật sư của các bị can đã dùng giải pháp thương lượng với phía công tố viện để giảm án.

VOA: Luật sư vừa nói đến thương lượng, vậy nếu luật sư được các bị can này nhờ biện hộ thì luật sư sẽ thương lượng như thế nào để bớt tội cho họ?

LS Đỗ Phủ: Thứ nhất là mình coi số tiền là bao nhiêu. Thường thường khi liên bang đưa ra tòa thì có những hướng dẫn về hình phạt của liên bang, federal sentencing guidelines. Các hướng dẫn này dựa vào một số tiền để đưa ra bản án, và sẽ trình cho quan tòa và quan tòa sẽ dựa vào số tiền này để tham chiếu và tuyên án là bao nhiêu.

Luật sư đại diện sẽ tìm cách giảm số tiền xuống, giảm được số tiền thì điểm xuống thấp, khi điểm xuống thấp thì bản án sẽ nhẹ hơn, thời gian ở tù sẽ thấp hơn.

VOA: Tại sao có những mức án khác nhau trong vụ này, người thì 30 năm người thì 35 năm?

LS Đỗ Phủ: Ông Nam và ông An bị kết vào 5 tội trong khi cô Kim Anh chỉ có 4 tội thôi. Tất cả 5 tội của ông An và ông Nam đều giống nhau. Bởi vậy thời gian tù của cô Kim Anh sẽ ít hơn hai ông kia.

VOA: Chúng ta biết những công ty ở Việt Nam có liên quan đến vụ này là Sân bay Vũng Tàu (VTA), Trung tâm Quản lý Bay miền Nam (SFMC), Liên doanh Dầu khí Việt Xô (VSP), Tổng Công ty Khí Việt Nam (PVGC), và Công ty Du lịch – Thương mại T&T. Tất cả đều do nhà nước đỡ đầu. Chúng ta cũng biết tên nhiều công ty của Mỹ cũng liên quan đến vụ này. Liệu các công ty Mỹ có phải ra tòa giống như công ty Nexus?

LS Đỗ Phủ: Tôi đoán công ty Nexus chỉ là công ty đứng ra làm trung gian. Các công ty giao hàng cho họ sẽ nói chúng tôi tuyệt đối không biết gì về chuyện hối lộ này, chúng tôi chỉ giao cho công ty trung gian này bán cho phía (...) thôi. Cho nên rất khó truy tố những công ty Hoa Kỳ nào đưa hàng cho Nexus, ngoại trừ khi nào các công ty Mỹ khi đưa hàng cho Nexus biết chắc Nexus sẽ dùng cách hối lộ để có được hợp đồng.

VOA: Bài học pháp lý nào cho Việt Kiều về buôn bán, đầu tư tại (...)?

LS Đỗ Phủ: Tôi xin tóm tắt hai hệ thống luật của Mỹ và (...). Bên Mỹ là Rừng Luật, còn (...)là Luật Rừng, cho nên bên (...) làm bất cứ chuyện gì, kể ra ra tòa, cũng phải có hối lộ mới thành công. Cho nên những Việt Kiều nào về (...) làm ăn, nhất là đại diện công ty Hoa Kỳ như ông Nam ông An thì tôi nghĩ mình nên suy nghĩ hai lần trước khi hối lộ cho họ để có hợp đồng. Nếu không trả hối lộ thì cũng khó làm ăn.

Đó là những sự suy nghĩ của những người về (...) làm ăn vì (...) là nước chậm phát triển. Nên suy nghĩ thật kỹ, hai lần hoặc ba lần trước khi về (...) làm ăn.

source

VOA Vietnamese

Thứ Năm, 25 tháng 3, 2010

Thâm thủng mậu dịch trong quý một vượt quá dự báo



VIỆT NAM KINH TẾ -
Bài đăng : Thứ năm 25 Tháng Ba 2010 - Sửa đổi lần cuối Thứ năm 25 Tháng Ba 2010

Reuters
Thanh Phương

Các số liệu từ bộ Kế hoạch và Đầu tư được đăng trên báo chí trong nước hôm nay cho thấy, trong quý một năm nay, thâm hụt mậu dịch của Việt Nam đã lên đến 3,6 tỷ đôla, hơn một tỷ đô la so với dự báo của chính phủ.

Mức thâm thủng này chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn chỉ tiêu 20% mà chính phủ đề ra.

Vào năm ngoái, thâm thủng mậu dịch của Việt Nam là 12,2 tỷ đô la, tuy có giảm so với năm 2008, nhưng như vậy là vẫn ở mức cao. Phần lớn thâm thủng là trong trao đổi mậu dịch với Trung Quốc (11,5 tỷ đôla).

Trong khi đó, mức lạm phát của Việt Nam đang gây nhiều quan ngại. Theo số liệu do Tổng Cục Thống Kê công bố hôm qua, giá tiêu dùng của Việt Nam trong quý 1 của năm nay đã tăng 8,51 % so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu là do giá nhà ở, vật liệu xây dựng và thực phẩm tăng cao. Lạm phát ở Việt Nam đã tăng nhanh từ bảy tháng qua. Tính trong ba tháng đầu năm, lạm phát đã lên tới 4,1% và theo nhiều nhà kinh tế, lạm phát ở Việt Nam sẽ lại vượt quá 10%.

Theo ngân hàng HSBC của Hồng Kông, mức lạm phát của Việt Nam như vậy là đã lên cao ở mức đáng ngại. Một chuyên gia của ngân hàng này dự báo là áp lực lạm phát sẽ tiếp tục mạnh trong những tháng tới.

Mặc dù lạm phát đang tăng trở lại như vậy, Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam hôm nay vẫn giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 8%, trái với tin đồn cho rằng ngân hàng này sẽ tăng lãi suất thêm 1 điểm.

source

RFI Vietnamese

Thứ Tư, 17 tháng 3, 2010

Nước Mỹ thoát ra khỏi khủng hoảng 2008 như thế nào?




Duy Anh





Ngày thứ năm 18 tháng 9 năm 2008 đánh dấu ngày đen tối nhất của cuộc khủng hoảng tài chánh toàn cầu vừa qua. Lúc 11 giờ sáng, cơ quan Fed nhận thấy các cơ sở tài chánh đang rút tiền từ các tài khoản tiền mặt theo mức độ chóng mặt $550 tỷ trong vòng hai tiếng đồng hồ. Nếu chậm hành động, Fed phỏng đoán chỉ đến 2 giờ chiều ngày hôm đó, $5.5 ngàn tỷ sẽ bị rút ra và sẽ làm sụp đổ hệ thống tài chánh Hoa Kỳ. Sau đó trong vòng 24 tiếng đồng hồ nữa, hệ thống tài chánh toàn thế giới coi như sẽ bị tê liệt hoàn toàn. Văn minh nhân loại có nguy cơ sẽ trở về thời kỳ trung cổ.

Fed và bộ Ngân Khố Hoa Kỳ vội vàng tung ra $105 tỷ cứu chữa nhưng mức độ rút tiền càng lúc càng tăng. Fed lập tức ra lệnh phong tỏa tất cả các tài khoản ngân hàng và FDIC thông báo nâng mức độ bảo đảm các tài khoản cá nhân lên $250,000 (so với $150,000 trước đó) để trấn an người dân ngưng rút tiền. Đồng thời, chính quyền Hoa Kỳ tuyên bố xuất ra một số tiền $700 tỷ cứu nguy. Sở dĩ có con số $700 tỷ vì đó là số lượng tối đa chính quyền có thể sử dụng trong trường hợp khẩn cấp mà không cần đợi Quốc Hội thông qua để nâng mức nợ quốc gia lên.

Đến lúc này thì chính quyền Mỹ nhận ra là các mảng kinh tế đang thi nhau sụp đổ hàng loạt như những con cờ domino. Bắt nguồn từ sự xuất hiện những trái phiếu địa ốc với những “phát minh” tưởng chừng như tài tình, chẳng hạn các loại nợ sub-prime, rồi mortgage-backed securities (MBS), tiếp theo là dạng collateralized debt obligations (CDO), rồi lại credit default swaps (CDS)…cho đến lúc bong bóng thị trường địa ốc vỡ tan thì toàn bộ hệ thống tài chánh lâm vào khủng hoảng là điều tất nhiên. Các ngân hàng bị khó khăn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự vay mượn của các hãng xưởng và công ty dịch vụ, đưa đến sự tắt nghẽn hoạt động kinh doanh của các ngành.

Cho đến nay nếu đổ lỗi cho cá nhân hay tổ chức nào phải chịu trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng vừa qua cũng khó vì có quá nhiều yếu tố đã xảy ra và tích lũy từ từ cho đến khi bị bùng nổ, tương tự như sự hình thành của một cơn bão hoàn chỉnh (perfect storm). Trong đó, phải kể đến chính sách giữ phân lời thấp quá lâu của Fed, sự nới lỏng các qui định hoạt động cần thiết (deregulation), lòng tham và nỗi sợ hãi của giới đầu tư v.v…

Nếu muốn giải thích một cách đơn giản thì có thể tóm tắt như sau:

-Vì ham lợi, một số ngân hàng sáng chế hình thức cho vay nợ sub-prime là những món nợ cho những người thiếu “credit” với lãi suất cao hơn bình thường. Vì lãi suất thị trường chịu ảnh hưởng của Fed đang giữ ở mức độ thấp nên lãi suất nợ sub-prime cũng nằm ở không cao lắm. Điều này làm tăng vọt số lượng người mua nhà và giá nhà lên cao chưa từng thấy. Càng thiếu credit thì dĩ nhiên nguy cơ người vay không trả nổi nợ và lãi càng tăng.

-Để che dấu nguy cơ, các ngân hàng gom các món nợ địa ốc thành những MBS và CDO bán lại cho các công ty Fannie Mae và Freddie Mac là những cơ sở cho vay địa ốc được sự bảo trợ của chính phủ. Chính quyền Mỹ dưới thời phe Dân Chủ lúc đó chủ trương tạo điều kiện cho người dân có nhà nên sẵn sàng tài trợ cho những món nợ này. Ngoài ra, nhằm giảm thiểu rủi ro, các ngân hàng chủ nợ trao đổi CDS với các công ty bảo hiểm, chẳng hạn như công ty AIG.

-Hoạt động cho vay vô tội vạ này hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chính quyền và hình thành một hệ thống tài chánh mà GS Krugman mệnh danh là hệ thống ngân hàng trong bóng tối (shadow banking system) với tổng số doanh vụ lên đến nhiều ngàn tỷ USD, vượt cả hệ thống ngân hàng chính thức. Điều sơ đẳng nhất là nguy cơ người vay không trả nợ là điều tất yếu càng lúc càng cao với sự hình thành của bong bóng địa ốc. Các ngân hàng quá tham lợi đã nhắm mắt làm ngơ, tưởng chừng như nguy cơ này đã có người khác lãnh dùm rồi.

-Đến khi thị trường địa ốc bắt đầu tan vỡ với hàng loạt những người vay nợ bỏ nhà, các ngân hàng bị lâm vào tình trạng phải nhận lãnh những căn nhà đang thi nhau rớt giá, đồng thời các công ty bảo hiểm phải bồi thường những món nợ cũng bị lâm vào tình trạng nguy ngập. Cơn bão bắt đầu hoành hành và hàng loạt những cơ sở tài chánh tuyên bố phá sản. Quả tim đã có dấu hiệu ngừng đập thì các hoạt động sản xuất và dịch vụ bị tắt nghẽn, bắt đầu sa thải công nhân và thậm chí tuyên bố phá sản theo như ngành xe hơi Hoa Kỳ. Người dân mất công ăn việc làm thì giảm niềm tin vào nền kinh tế và giảm tiêu thụ, nước Mỹ đi dần vào một cơn khủng hoảng vô tiền khoán hậu.

Chính quyền Obama khi nhậm chức vào tháng giêng 2009 đứng trước bài toán nan giải là nên cứu ngành kinh tế nào trước. Có người cho rằng chính quyền Obama đã thiên vị khi tung tiền thuế của người dân nhằm cứu “Wall Street” (ám chỉ các công ty) thay vì cứu “Main Street” là người dân đã chịu ảnh hưởng của sự ngu dốt và hám lợi của các công ty, trong đó các cơ sở tài chánh là những thủ phạm chính gây ra cuộc khủng hoảng.

Tuy nhiên nếu đánh giá một cách công bằng thì chính quyền Obama đã có một kế hoạch khá toàn diện để đối phó với cơn nguy khốn. Đối với hệ thống ngân hàng và tài chánh thì chính quyền Obama chủ trương phải cứu bằng mọi giá các công ty “quá lớn để mà thất bại” như AIG, Citigroup v.v…sau khi một vài công ty nổi tiếng như Bearn Stearns, Lehman Brothers, Merrill Lynch bị lâm vào nguy cơ phá sản. Lehman Brothers cuối cùng phải khai phá sản, Bearn Stearns thì bán lại cho JP Morgan Chase và Merrill Lynch thì nhập vào Bank of America. Các cơ sở ngân hàng và tài chánh nhỏ hơn thì chính quyền bó tay để họ khai phá sản và FDIC đứng ra thanh toán thủ tục phá sản, bán các tài sản còn lại và đền cho các thân chủ. Trong năm 2009 đã có 140 ngân hàng trung bình và nhỏ bị phá sản và từ đầu năm 2010 đến nay có 3 ngân hàng khác phải ngưng hoạt động.

Vào tháng 3/2009, chính quyền Obama đưa ra phương án Geithner, trong đó sẵn sàng chi ra $2 ngàn tỷ để làm sách hệ thống ngân hàng và giải quyết các món tài sản độc hại về địa ốc.

Đối với người dân (Main Street), chính quyền Obama tặng mỗi gia đình một số tiền “tín dụng thuế” (tax income credit) để tăng mức tiêu thụ. Tổng số tiền giảm thuế này lên đến $300 tỷ. Sau đó tặng món tiền (dưới hình thức thuế trả về) có thể lên tới $8,000 cho những người mua nhà lần đầu tiên. Nhằm kích thích mức tiêu thụ xe hơi, chính quyền thiết lập chương trình “cash for clunkers” mua lại những chiếc xe hơi cũ với giá lên dến $5,000 mỗi chiếc cho những người mua xe mới. Ngoài ra, chính quyền còn tăng thời gian được lãnh tiền thất nghiệp của những người mất việc lên thêm nhiều tháng nữa.

Những chương trình kể trên nằm trong một chương trình gọi là “economic stimulus” với tổng ngân sách $787 tỷ đã được Quốc Hội thông qua.

Bao trùm lên cả là Fed áp dụng chính sách thả lỏng tiền tệ, cắt giảm tối đa lãi suất căn bản xuống mức chưa từng thấy là 0 - 0.25% nhằm cung cấp tín dụng dồi dào cho doanh nghiệp để kích thích hoạt động.

Như vậy, nói chung cái giá phải trả để cứu nguy kinh tế có thể lên đến $3 ngàn tỷ! Đó là chưa kể một món tiền khác dự trù là $1.6 tỷ trong vòng 10 năm tới đây để cải tổ hệ thống bảo hiểm sức khỏe, nhưng đó là một câu chuyện khác.

Tiền ở đâu ra? Câu trả lời đơn giản nhất là chính phủ Mỹ cứ việc phát hành thêm, cần tới đâu phát hành tới đó. Theo CBO (Congressional Budget Office), năm 2009, chính phủ Mỹ đã ghi nhận mức thâm hụt ngân sách lên đến$1.4 ngàn tỷ và ước tính năm 2010 sẽ thâm thủng thêm $1.35 ngàn tỷ nữa. Hậu quả việc phát hành tiền quá nhiều chắc chắn sẽ đưa đến lạm phát và thiếu hụt thêm ngân sách nhà nước vì phải trả lãi trên số trái phiếu phát hành ra. Tuy nhiên nước Mỹ có lợi điểm là khả năng tác động vào lãi suất thành thử số tiền lãi phải trả được giữ ở mức thấp. Hơn nữa, số lưu lượng tiền tung ra chỉ bù đắp giá trị tài sản đã bị tan biến đi trong cơng khủng hoảng nên lạm phát vẫn nằm trong vòng kiểm tra được và chỉ có thể là một sự đe dọa trong tương lai mà thôi.

Kết quả sau một năm tiến hành các biện pháp cứu nguy, nền kinh tế Hoa Kỳ đã có những sự thay đổi khả quan. GDP trong quý 3/2009 đã tăng trưởng trở lại 2.2%, chính thức chấm dứt sự suy thoái kinh tế với 4 quý liên tiếp phá ttriển âm số. Theo dự doán, quý 4/2009 sẽ tiếp tục tăng trưởng 4.4%.

Real Gross Domestic Product. Nguồn: US Bureau Of Economic Analysis
Về lãnh vực lao động, hiện nay vẫn còn hiện tượng bị mất công ăn việc làm nhưng những tháng vừa qua các hãng xưởng đã bớt sa thải công nhân và các nhà phân tích hi vọng trong vòng một quý nữa, số lượng công việc được tạo ra sẽ cao hơn số công việc bị mất đi. Cần biết là để bảo đảm một sự phát triển đều hòa, nước Mỹ cần tạo ra một số lượng vào khoảng 200,000 công việc mới hàng tháng.

Nonfarm Payroll Employment. Nguồn: US Bureau Of Economic Analysis
Xét trên lãnh vực địa ốc mà sự sụp đổ là nguyên nhân trực tiếp đưa đến khủng hoảng, những dấu hiệu gần đây cho thấy đã có một sự chuyển biến tốt hơn rõ rệt. Số lượng nhà bị nhà băng tịch thu đã giảm đáng kể. Số lượng nhà bán được có chiều hướng gia tăng đồng thời với giá cả cũng hợp lý hơn, không còn hiện tượng bán thốc bán tháo như trước nữa. Sự phục hồi của lãnh vực địa ốc có khả năng làm tăng giá trị tài sản của người dân và từ đó đẩy mạnh được mức tiêu thụ của khu vực tư nhân là yếu tố chính đóng góp cho GDP.

Đáng kể nhất là hệ thống ngân hàng nói chung đã lấy lại được sự thăng bằng, các ngân hàng lớn đã có lợi nhuận trở lại và hầu hết đã trả lại được cho chính phủ những món tiền lớn đã vay. Theo ước tính, sự thiệt hại của của chính phủ khi ra tay cứu hệ thống ngân hàng chỉ vào khoảng trên dưới $100 tỷ, phần lớn do sự phá sản của một số ngân hàng trung bình và nhỏ.

Ngày 27 tháng 01 năm 2010 vừa qua, TT Obama ra điều trần trước lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ đã tóm tắt tình hình của quốc gia là cơn khủng hoảng tài chánh coi như đã trôi qua. Hậu quả còn lại là nạn thất nghiệp và chính quyền sẽ đặt trọng tâm trong năm 2010 sẽ giải quyết vấn đề này bằng những biện pháp cần thiết như tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực doanh nghiệp nhỏ, mở rộng lãnh vực khai thác năng lượng sạch và đặt chỉ tiêu tăng gấp đôi xuất cảng trong vòng 5 năm tới đây. Những công việc này nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Điều nhận xét rõ nhất trong buổi báo cáo của TT Obama là ông ta không hề nhắc đến cơn nguy hiểm vừa qua, cũng như những khó khăn quá lớn nào mà nước Mỹ sẽ phải đương đầu trong thời gian tới đây. Ông rất tin tưởng nước Mỹ sẽ giữ vững vị trí hàng đầu của một cường quốc về kinh tế và vấn đề thất nghiệp trước sau gì cũng được giải quyết.

Sự lạc quan của TT Obama phần nào đã tóm tắt tình hình chung sự thành công của kinh tế Mỹ trong giai đoạn hiện nay. Theo tin tức mới cập nhật thì ngày 29 tháng 01, 2010 vừa qua, bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã loan báo sơ khởi là GDP Hoa Kỳ trong quý 4/2009 đã đạt được thành tích tăng triển 5.7%. Phải chăng nước Mỹ đã thật sự thoát ra khỏi cơng khủng hoảng? Thời gian còn quá sớm để khẳng định điều này vì tỉ lệ thất nghiệp còn quá cao nhưng ít nhất đa số các nhà phân tích đều cho rằng thật sự đã có ánh sáng ở cuối đường hầm rồi.


30/01/2010

source


© DCVOnline

Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2010

TS Trần Lê Anh: VN không dễ kềm chế lạm phát


Kinh Doanh Cập nhật Thứ Sáu, 05 tháng 3 2010


Trong khoảng thời gian mấy ngày trước Tết cho đến nay, Việt Nam đã có những quyết định quan trọng về kinh tế. Nhân dịp này, tiến sĩ Trần Lê Anh, giáo sư Đại học Lasell, bang Massachusetts đã dành cho Ban Việt ngữ buổi trao đổi về những quyết định đó.

Tiến sĩ Trần Lê Anh, giáo sư Đại học Lasell, bang Massachusetts

Tiến sĩ Trần Lê Anh, giáo sư Đại học Lasell, bang Massachusetts


VOA: Gần đây Việt Nam đã có những động thái kinh tế đáng chú ý như phá giá đồng tiền trước Tết và tăng giá 2 mặt hàng rất quan trọng, là xăng và điện, sau Tết. Điều gì đang xảy ra đối với nền kinh tế Việt Nam?

TS Trần Lê Anh: Đó là sự bộc lộ của những (...) nội tại của nền kinh tế Việt Nam. Tiền đồng bị mất giá chủ yếu là do lạm phát và nhập siêu trầm trọng gây ra. Khi người ta đổ xô đi mua đôla thì cầu sẽ vượt xa cung, gây sức ép liên tục lên tỷ giá. Như vậy bắt buộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải điều chỉnh tỷ giá theo hướng làm giảm bớt tiền đồng với hy vọng bảo vệ được dự trữ ngoại hối, và giảm bớt nhập siêu. Còn giá xăng và giá điện tăng phần lớn do giá thành sản xuất tăng, và do tiền đồng bị mất giá, làm cho giá nhập khẩu nhiên liệu đầu vào tăng. Qua đây ta có thể thấy hai vấn đề mấu chốt. Thứ nhất, hậu quả của những chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng để tăng trưởng kinh tế trước đây dần dần bộc lộ ra, thể hiện qua lạm phát. Thứ nhì nền kinh tế Việt Nam chưa khả năng sản xuất được nhiều mặt hàng dựa vào nguồn đầu vào trong nước; do đó phải nhập khẩu rất nhiều, đưa đến những khó khăn do nhập siêu quá cao gây ra.

VOA: Việt Nam bấy lâu nay muốn các nước khác, đặc biệt là Mỹ, công nhận mình có nền kinh tế thị trường, vậy các biện pháp phá giá tiền và tăng giá xăng, điện có phù hợp với những qui luật của kinh tế thị trường không?

TS Trần Lê Anh: Về tỷ giá thì chính sách của Việt Nam hiện nay là điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu của thị trường; nhưng có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước. Trên lý thuyết, cung cách điều hành như vậy là thích hợp trong bối cảnh của nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam, khi các thị trường như tiền tệ và tài chính chưa được phát triển, rất dễ gây rủi ro khi hoàn toàn thả nổi tỷ giá theo thị trường tự do.

Nhưng trong thực tế, việc điều hành tỷ giá ở Việt Nam vẫn chưa thực sự linh hoạt, thường đợi nước đến chân mới nhảy. Cái khó ở đây là khả năng linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thường bị hạn chế bởi những mục tiêu khác của chính phủ.

Về vấn đề tăng giá xăng và điện thì khi giá đầu vào tăng thì giá đầu ra tăng là chuyện bình thường của thị trường.

Chính phủ Việt Nam cũng đang cố gắng để giá cả vận hành theo cơ chế thị trường. Hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu có thể tự điều chỉnh giá bán ra trong phạm vi cộng trừ 7% khi giá thành thay đổi; nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là khi một số thị trường quan trọng bị độc quyền hay gần như độc quyền nắm giữ thì liệu thị trường có hoạt động có hiệu suất hay không.

VOA: Thành phần nào phải hứng chịu thiệt thòi trong bối cảnh rối ren của tỷ giá và lạm phát hiện nay?

TS Trần Lê Anh:
Khi đồng bạc Việt Nam bị mất giá so với đồng đôla thì hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên đắt đỏ hơn, vì đôla là ngoại tệ thanh toán chính cho các đơn đặt hàng nhập khẩu của Việt Nam. Vì thế cho nên trước mắt, các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ gặp bất lợi, và kế đến là người tiêu dùng. Ở Việt Nam có những mặt hàng nhập khẩu mà người tiêu dùng phải chấp nhận mua với giá rất cao, chẳng hạn như sữa bột cho em bé. Còn đối với diễn biến lạm phát nói chung, thì trước sự tăng giá của các mặt hàng thiết yếu như xăng và điện, thì thành phần chịu thiệt thòi nhiều nhất là những người có thu nhập thấp, chẳng hạn như các công nhân. Trong khi giá cả các nhu yếu phẩm cứ tăng mà đòi lên lương là chuyện không phải dễ, cho nên công nhân đặc biệt gặp khó khăn.

VOA: Ngoài việc gia tăng lạm phát thì việc phá giá tiền và tăng giá các mặt hàng chính có gây ra những hậu quả gì khác không?

TS Trần Lê Anh: Tất nhiên là có. Thứ nhất là yếu tố tâm lý. Khi công chúng lo sợ đồng tiền sẽ tiếp tục bị mất giá và giá cả sẽ leo thang, thì nó sẽ làm công việc điều hành chính sách của chính phủ bị giảm tác dụng. Thứ nhì, khi lạm phát có chiều hướng gia tăng mạnh, áp lực để chính phủ phải đưa ra những chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt sẽ trở nên mạnh hơn. Làm như vậy hệ quả sẽ ảnh hưởng tiêu cực lên mức độ tăng trưởng kinh tế; dẫn đến khả năng vừa đạt mục tiêu ổn định kinh tế vừa đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế thích hợp trở nên khó khăn hơn rất nhiều

VOA: Hướng giải quyết của chính phủ Việt Nam là như thế nào và nhận xét của tiến sĩ về hướng đó ra sao?

TS Trần Lê Anh: Đối với vấn đề lạm phát thì Việt Nam đưa ra chỉ tiêu là giữ cho lạm phát không quá 7% trong năm nay. Do đó, trước những diễn biến phức tạp của giá cả thì chính phủ Việt Nam cũng có chủ trương thực hiện các biện pháp như kiểm soát giá cả, cân đối cung cầu và sử dụng các công cụ và chính sách tiền tệ để kềm chế lạm phát. Nhưng tôi nghĩ kềm chế lạm phát ở mức theo như chỉ tiêu đã định ra trong bối cảnh hiện nay không dễ chút nào. Nó phụ thuộc rất lớn vào việc chấp nhận đánh đổi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam; và đó là một quyết định mang tính chất chính trị. Tôi nghĩ, trước mắt Việt Nam sẽ cố gắng kềm chế lạm phát, nhưng chỉ trong chừng mực mà ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế có thể chấp nhận được bởi yếu tố chính trị. Nhiều tổ chức quốc tế cũng đã dự báo là lạm phát của Việt Nam trong năm nay sẽ là trên 7%. Có chỗ còn đưa ra con số trên 10%, như của EIU, Economist Intelligence Unit.

source

VOA Vietnamese